Mặt khác, chừng nào đáy biển còn ở trạng thái đứng yên, các bãi lắng đọng
dày có thể sẽ không được tích tụ ở những nơi bị nhấn chìm vốn rất thuận
lợi cho các sinh vật. Điều này càng ít xảy ra hơn trong các thời kv chuyến
giao của quá trình tiến hóa; hay nói một cách chính xác hơn, những nền
mới tích tụ sẽ bị phá hủy do nền này sẽ nhô cao lên trong giới hạn các biếấn
động của biển.
Do các vấn đề trên nên các bằng chứng địa lý sẽ bị gián đoạn. Tôi cảm thấy
tin vào tính chân thực của quan điểm này, vì chúng được đặt trong mối liên
hệ chặt chẽ với các yếu tố chung đã được ngài c. Lyell và E. Porbes cùng
đưa ra một cách độc lập với nhau.
0 đây có một điều cần lưu ý, trong giai đoạn các vùng lục địa dâng lên và
mức nước biển hạ xuống, các điều kiện sống mới sẽ được hình thành. Như
đã giải thích ở trên, các hoàn cảnh sống sẽ ở điều kiện thuận lợi nhất cho
việc hình thành các loài và các giống mới. Nhưng thông thường thì những
giai đoạn đó không được ghi lại trên những dấu tích lịch sử. Mặt khác, khi
nước biến rút, số lượng các khu vực có sự sống và số các sinh vật sẽ giảm
đi (trừ những sinh vật sống ở ven bờ biển trước khi lục địa tách ra thành các
quần đảo). Và cuối cùng, số loài được tạo mới sẽ ít hơn số những loài đã
biến mất vì những biếấn động về địa lý. Chính vào thời kỳ đầu của giai
đoạn hình thành lục địa, các lớp trầm tích chứa nhiều hóa thạch đã được
hình thành. Có thể nói rằng thiên nhiên đã được bảo vệ để chống đỡ lại với
những biếấn động từ dạng này sang dạng khác của chính nó.
Từ những nhận xét trên, có thể thấy rõ ràng là, nếu xem xét một cách tổng
thể, các dầu tích địa lý là không hoàn thiện; nhưng nếu chúng ta chỉ giới
hạn sự chú ý của mình vào bất cứ một dạng địa lý nào, chúng ta sẽ thấy rất
khó giải thích tại sao chúng ta không thể tìm thấy những giống tương đối
tiến hóa giữa các loài có quan hệ với nhau về nguồn gốc. Trong một vài
trường hợp, trên cùng một dạng địa lý có thể tìm thấy các giống khác nhau
của cùng một loài được phân bố ở tầng trên và tầng dưới của dạng địa lý