nhau. Sự tồn tại của cả hai lớp kết hôn đã hạn chế số lượng đó xuống còn
6/12 = 1/2; một đàn ông của lớp a chỉ có thể lấy một phụ nữ của nhóm
totem từ 1 đến 6; khi hình thành 2 tiểu lớp thì số lượng đó giảm xuống còn
3/12 = 1/4; một đàn ông của nhóm totem a chỉ được chọn vợ hạn chế trong
số phụ nữ của nhóm totem 4, 5, 6.
Các quan hệ lịch sử của các lớp kết hôn - mà trong một số bộ tộc có
thể lên tới 8 lớp - đối với các nhóm totem hết sức không rõ ràng. Người ta
chỉ thấy các tổ chức này chẳng qua chỉ nhằm tới chẳng hạn kết hôn ngoại
tộc và theo đuổi mục đích xa hơn nữa.
Trong việc hình thành tiếp theo của hệ thống lớp kết hôn thể hiện rõ
ý định khắc phục sự cấm đoán loạn luân bản năng và tập thể, và cấm đoán
kết hôn giữa những người có họ hàng xa, tương tự như nhà thờ công giáo
đã làm, bằng cách áp đặt sự cấm kết hôn vốn bất di bất dịch giữa anh chị
em ruột đối với cả anh chị em họ và mức độ họ hàng về mặt tinh thần của
họ.
Thật ít có ý nghĩa đối với chúng ta, khi ta chỉ muốn đi sâu hơn nữa
vào những thảo luận quá ư phức tạp và mù mờ về nguồn gốc và ý nghĩa của
các lớp kết hôn cũng như tương quan của chúng với totem. Đối với mục
đích của chúng ta, thì chứng cứ về sự cẩn trọng nghiêm ngặt mà cư dân
Australia cũng như các bộ tộc dã man khác vận dụng để tránh loạn luân
cũng đã là đủ. Chúng ta phải nói rằng, những người hoang dã đó nhạy cảm
về loạn luân hơn chúng ta. Đối với họ có lẽ điều đó dễ xảy ra, nên phải có
sự đề phòng với chính mình.
Sự cấm loạn luân của các bộ tộc này vẫn chưa được bảo đảm chỉ
bởi việc thiết lập các thiết chế đã miêu tả, xem ra về căn bản chỉ nhằm
chống lại loạn luân tập thể. Ta cần phải tìm kiếm một loạt những "tập quán"
(Sitten) nhằm tránh giao hợp cá nhân giữa những người có họ hàng gần
theo cách hiểu của chúng ta, chỉ có thể giữ được nhờ sự nghiêm khắc tôn
giáo và mục đích của chúng, đối với chúng ta, tỏ ra không còn nghi ngờ gì
nữa. Người ta có thể gọi nhũng tập quán hay là cấm đoán theo tập quán đó