Còn với Hồi, Tạng, Mãng, Mông thì họ không thể quên vì nó mới xảy ra
về sau nầy (không kể yếu tố Mông nguyên thỉ lúc Mông hợp chủng với
Nhục Chi), lại xảy ra một cách ngoạn mục vì bốn chủng ấy xâm lăng họ,
chiếm đất đai mà họ đã lập quốc nơi đó và hùng cường từ lâu rồi.
Học ngôn ngữ Trung Hoa chúng tôi thấy rằng Quảng Đông, Mân Việt,
v.v. nói tiếng Tàu sai giọng chút ít chớ không hề có phương ngữ Quảng
Đông, phương ngữ Mân Việt như toàn thể thế giới đều ngộ nhận.
Tuy nhiên, những người Tàu Hoa Nam còn giữ được lối một trăm danh
từ Mã Lai trong ngôn ngữ Tàu đọc sai đó, những danh từ ấy cũng có mặt
trong Việt ngữ, y hệt như vậy (sẽ thấy ở các biểu đối chiếu ngôn ngữ).
Thế nghĩa là Tàu Hoa Nam là Mã Lai bị lai giống và đồng hóa đến 90
phần trăm.
Từ nhà Hạ về sau, các đời vua Trung Hoa đều lấy phương Nam làm
hướng tốt, xây cung điện, thành quách, luôn luôn hướng về phương Nam.
Sách Tàu nói rằng đó là theo thuyết âm dương và thuyết ngũ hành, nhưng
không phải thế. Họ tự nhiên thấy rằng đó là hướng tốt vì đó là con đường
bành trướng thành công độc nhứt của họ, và họ làm thế để tự nhắc nhở cái
nẻo đúng mà họ phải theo, cả về sau nầy nữa.
Thuyết âm dương và ngũ hành cho rằng hướng Nam là hướng tốt là nói
theo kinh nghiệm của dân tộc họ, chớ không phải là nói theo quy luật thần
thánh mà dân tộc họ bắt buộc phải mù quáng nghe.
Day mặt hướng Bắc là thái độ của chư hầu và buồn cười lắm là dưới thời
Chiến quốc, các chư hầu phương Bắc, như nước Yên chẳng hạn, ngồi nói
chuyện với vua nhà Chu hay một tay Bá nào đó, lại phải ngồi ở phía Nam
của ông ấy để tỏ thái độ thần phục.
Tới đây thì ta thấy sử gia Pháp René Grouset đã sai lầm, trong quyển “Sử
ký Trung Hoa”, khi ông viết rằng: “Dưới đời nhà Hạ, dân Trung Hoa từ ngã