Hơn thế, ở trang 335, sử gia còn quả quyết rằng, mặc dầu người Tàu ở
đất Việt có lai Chàm và “các thứ dân khác” về sau, nhưng những dân đó
không có làm cho Tàu cải biến (Chính sử gia đã gạch dưới dòng để nhấn
mạnh rằng cả đến ngày nay, ta vẫn cứ là Tàu, không cải biến.
Sử gia lại viết rằng sau Mã Viện thì ở đất cổ Việt, có sự dời đổi con
người, tức dân Lạc Việt đi mất hết hoặc bị tiêu diệt hết, và dân Tàu đến
thay thế. Hai tiếng dời đổi không thể có nghĩa nào khác hơn.
Những câu sử như thế có nghĩa không thể chối cãi rằng dân Việt Nam là
dân Tàu thuần chủng, hai tiếng không hề được thốt ra, nhưng ai cũng lắng
nghe được, bởi vì cuộc hợp chủng với thổ dân quá nhỏ, không làm cải biến
người Tàu kia mà.
Bao nhiêu chứng tích mà sử gia đưa ra, đều là chứng tích di cư không hề
có chứng tích hợp chủng, và những tiếng hợp chủng, lai giống, chỉ được
thốt ra có một lần, nhưng được gỡ gạc lại ngay bằng ba tiếng “không cải
biến”.
Nhưng đó là những câu khẳng định suông. Sử gia nói như thế thì quá dễ,
ta bác cũng quá dễ bằng một tiếng “Không” suông, như tiếng “Có” suông
của sử gia.
Chúng ta chỉ có thể làm việc trên cái gì cụ thể, tức cần tìm cho được một
chứng tích của sử gia để mà nhìn nhận, hay bác bỏ. Và chúng tôi đã may
mắn tìm được câu sau đây, một câu sử có vẻ khoa học, có tham vọng chứng
minh. Sử gia viết ở trang 229: “Về phương diện nhân chủng, tức phương
diện căn bản, không sao nói được là hai dân tộc không giống nhau… đại đa
số người Việt Nam đều thuộc giống Mông Cổ, da thì vàng, tóc thì thẳng, có
hình sọ giống hình sọ người Trung Hoa”.
Quả đúng như giáo sư Nguyễn Phương nói, khoa chủng tộc học (mà giáo
sư gọi theo trước 1945 là nhân chủng học) là nền tảng căn bản. Giáo sư lại