Áo cưới trước cổng chùa, Người đẹp bán tơ, Ngưu Lang – Chức Nữ, Sơn
nữ Phà Ca... Còn trong thơ ca, Kiên Giang đã viết những câu thơ mà nhiều
nhà nghiên cứu cứ ngỡ là ca dao: “Ong bầu vờn đọt mù u, Lấy chồng càng
sớm tiếng ru càng buồn”. Thơ Kiên Giang cũng như thơ Nguyễn Bính có
nét chung bình dị, mộc mạc, nhưng một bên là chân quê Nam Bộ, còn một
bên là chân quê Bắc Bộ”.
Có người nói Kiên Giang - Hà Huy Hà làm thơ dễ dãi đến mức có lẽ không
đọc lại bản thảo (?). Cũng có thể như vậy hoặc không như vậy, nhưng nếu
dễ dãi mà đã để lại cho đời những bài thơ như: “Hoa trắng thôi cài trên áo
tím”, “Khói trắng” hay “Tiền và lá”... - những bài thơ sống dai dẳng trong
lòng người dân miền Nam suốt mấy chục năm qua thì quả là sự "dễ dãi"
không phải ai cũng đạt được!
Người ta có thể lầm tưởng sự dễ dãi với tính giản dị, mộc mạc đặc thù Nam
Bộ của bút pháp Kiên Giang - Hà Huy Hà:
Nhớ mùa cau trổ trong vườn cũ
Mẹ quét lá vàng ủ lấy phân
Khói trắng lên trời như tóc bạc
Con ngờ khói tóc quyện mây Tần
(Khói trắng)
Viết về bà mẹ Nam Bộ làm sao có thể viết giản dị hơn, thi vị hơn mà sâu
sắc hơn?
Trong phong trào báo chí trước 1975, Kiên Giang - Hà Huy Hà đã từng dẫn
đầu đoàn biểu tình "ký giả đi ăn mày" chống lại những quy chế khắt khe
của chính quyền cũ áp đặt cho báo chí, nhà thơ đã bị đi tù vì chuyến "ăn
mày" đó. Hành động này nhắc chúng ta nhớ rằng thơ Kiên Giang - Hà Huy
Hà, nói theo ngôn từ bây giờ, là thơ "về nguồn".
Kiên Giang: “Tôi tên thật là Trương Khương Trinh, sinh năm 1927 tại Rạch
Giá, Kiên Giang. Học hết lớp 12 tôi tham gia kháng chiến chống Pháp 9
năm, làm biên tập viên, phóng viên báo Tiếng súng kháng chiến ở chiến
khu 9. Năm 1955, tôi về Sài Gòn viết báo cho các tờ: Dân Chủ Mới, Tiếng
Chuông, Dân Ta, Dân Tiến... Kiên Giang là bút danh khi tôi làm thơ, còn
viết báo tôi lấy tên Hà Huy Hà. Bút danh này khiến bọn mật thám lầm