nhân của một cuộc tàn sát hung bạo, chẳng hạn như y có thể là một người
lính Ba Lan bị quân Đức Quốc Xã của Hitler sát hại.
Trái lại, ở đây chúng ta thấy nghiệp báo ứng vào chính thể xác của y: Nó
trở thành một vật khí dụng cho y dùng để trả quả. Bịnh mất máu làm cho cơ
thể yếu đuối suy nhược suốt một đời, chính là một cơ hội trả quả nặng nề
đau đớn hơn và có một ý nghĩa giáo dục rộng rãi hơn là một cái chết vì đao
kiếm trên bãi chiến trường. Linh hồn này đã làm đổ máu cả một dân tộc để
làm thỏa mãn tham vọng chinh phục đất đai. Trong kiếp này sự yếu đuối bất
lực so bịnh thiếu máu gây nên làm cho y chịu quả báo một cách tượng trưng.
Điều này có vẻ hình như hoang đường, nếu chúng ta không quen với
những quan niệm thuộc về loại đó, qua sự phát minh gần đây về những sự
tương quan giữa linh hồn và thể xác theo khoa Tâm Bịnh Học
(Psychosomatique).
Trước đây không lâu, người ta vẫn tưởng rằng tất cả mọi chứng bịnh đều
so những nguyên nhân về sinh lý. Những sự tiến bộ của khoa chữa bịnh tinh
thần (Psychiatrie) đã chỉ rằng ít nhất có vài bịnh trạng nguyên nhân là do bởi
những sự xáo trộn tinh thần hoặc xúc động tình cảm gây nên. Từ sự khám
phá này mới nảy sinh một ngành Y học mới, gọi là khoa Tâm bịnh học
(Psychosomatique, do hai danh từ Hy Lạp: Psyche là linh hồn, và soma là
xác thể), khoa này cũng đạt được những kết quả hiển nhiên và không thể
chối cãi về sự liên quan giữa xác thể và linh hồn.
Khoa Tâm bịnh học đã chứng minh rằng những sự căng thẳng về tình cảm
nếu không biểu lộ được bằng lời nói hay hành động, thường tự biểu lộ nơi
thể xác một cách tượng trưng bởi một thứ "Tiếng nói của cơ thể."
Thí dụ: Nếu người bịnh không nuốt được một cách trôi chảy trong bữa ăn
mà người ta không tìm thấy có một nguyên nhân nào thuộc về cơ thể, thì đó
có thể là một cái gì trong đời của bịnh nhân mà y "Không thể nuốt được." Sự
buồn mửa, nếu không phải là do bịnh tật của cơ thể sinh ra, có nghĩa là người
bịnh còn mang trong lòng một cái hận nào đó trong đời sống tình cảm của y.