Nếu đó là một cái tội thì tại sao Thượng Tọa Thích Trí Quang, người lãnh
đạo sự tranh đấu ấy, người đã gởi văn thư xác nhận phân minh trước Quí
Tòa rằng ông lãnh đạo sự tranh đấu, lại không bị truy tố?
Người lãnh đạo, kẻ chủ mưu không bị truy tố thì tại sao những người chỉ có
đi theo sự lãnh đạo ấy lại bị truy tố?
Tôi xin Quí Tòa tha bổng các bị can."(17)
Những điều Luật Sư Võ Văn Quan nêu ra để biện hộ như mục tiêu tranh
đấu là chánh đáng hay tại sao không truy tố người chủ mưu... đều không
phải là những yếu tố luật định có thể gỡ tội hay giảm khinh cho các bị cáo.
Tướng Lê Quang Vinh bị Tòa án Quân Sự tuyên phạt tử hình ngày 4.7.1956
cũng đã bị truy tố và xét xử về các tội tương tự. Nhưng ai cũng biết rằng
Tòa án Quân Sự Mặt Trận là một toà án chính trị, không xử theo luật mà xử
theo lệnh nên Luật sư Võ Quan mới đưa chính trị vào pháp đình để giỡn
chơi với toà. Kết quả, ngày 22.12.1967, sau khi nghị án, Tòa tuyên phạt hai
Đại Tá 10 năm khổ sai, một sĩ quan và Bác Sĩ Mẫn 10 năm tù ở, 21 bị cáo
được tha bổng. Chỉ ít lâu sau Bác Sĩ Mẫn và sĩ quan nói trên được ân xá,
nhưng không thể trở lại binh nghiệp nữa.
VIỆT CỘNG KIỂM ĐIỂM THÀNH QUẢ
Khi cuộc nổi loạn của Phật Giáo miền Trung do Thượng Tọa Thích Trí
Quang và Võ Đình Cường trực tiếp lãnh đạo từ 1964-1966 đã bị đánh bại,
Khu ủy và Quân Khu Trị-Thiên-Huế đã làm một bản kiểm điểm về những
thành quả thu được và những khuyết điểm đưa đến thất bại. Tài liệu này
được in trong cuốn "Chiến trường Trị-Thiên-Huế Trong Kháng Chiến
Chống Mỹ Cứu Nước Toàn Thắng" do Ban Tổng Kết Chiến Tranh Chiến
Trường Trị-Thiên-Huế biên soạn, nhà xuất bản Thuận Hóa ở Huế xuất bản
năm 1985.
Những thắng lợi thu được
Bản kiểm điểm đã mở đầu bằng phần nhận định tổng quát như sau:
"Thắng lợi của cuộc đồng khởi cuối năm 1964 và đầu năm 1965 đã giáng
một đòn nặng nề vào quốc sách "ấp chiến lược" của địch đánh dấu một sự