Năm Góc, cũng không có một ai chúng tôi biết tại Cục Tình báo trung
ương, Bộ Ngoại giao hay Nhà Trắng.
Mãi đến tận gần đây, Mort vẫn còn nhắc lại với tôi rằng điều đó không có
nghĩa là tất cả những ai hồi đó chúng tôi nghĩ đến đều là những người quyết
tâm rút quân. Vẫn có những người, đặc biệt trong lực lượng không quân,
tin rằng chúng ta cần tiếp tục ném bom ác liệt hơn nữa. Vấn đề ở đây là họ
không còn tin rằng những gì chúng ta đang làm là phương án "tối ưu thứ
hai" hoặc phương án có thể chấp nhận được, thậm chí có thể coi là tác nhân
để chúng ta tiếp tục lấn tới. Tất cả những phương án hoặc ném bom ác liệt
hơn tại miền Bắc hoặc rút quân hoặc đàm phán rút ra khỏi Việt Nam giờ
đây không có nghĩa lý gì với họ. Trên thực tế, những quan chức này có
cùng quan điểm mà lúc đó dân chúng đều chia sẻ: Hoặc chiến thắng hoặc
rút quân về nước.
Điều đáng chú ý là trong phỏng đoán của chúng tôi, số lượng dân chúng
ủng hộ việc leo thang chiến tranh hơn là rút quân thì nhiều hơn là số lượng
quan chức và binh lính, tính tới thời điểm này - thậm chí trước Tết Mậu
Thân năm 1968 và điều đó càng đúng sau Tết Mậu Thân. Thậm chí ngay
trong các sĩ quan quân đội bảo thủ, một số người làm việc trong Lực lượng
tác chiến của Lầu Năm Góc, và đặc biệt trong những sĩ quan quân đội trước
đây đã phục vụ trong chiến tranh Việt Nam, số lượng sĩ quan cho rằng nên
rút quân vào cuối năm 1967 nhiều hơn dân chúng. Tuy nhiên lệnh ném bom
vẫn được phát ra và vẫn được thi hành. Trong thời gian 10 tháng sau khi
McNamara rời Nhà Trắng, Clark Clifford, theo lệnh Tổng thống, đã ném
xuống Đông Dương một số lượng bom (1,7 triệu tấn) nhiều hơn số lượng
bom của ba năm trước đó (15 triệu tấn). Nếu Halperin đúng, và tôi tin rằng
anh ta đúng thì lệnh ném số lượng bom khổng lồ như vậy trong vòng 10
tháng đã được cấp dưới của Tổng thống, từ Clifford trở xuống tới các phi
công ngoan ngoãn thi hành và họ tin rằng việc làm đó không hề phục vụ lợi