(9) Tên những người Hà Lan, năm 1626, đặt cho thành phố New York sau
này. .sup">(9), thuộc địa của Hà Lan, một chiếc tàu tên gọi Sainte-
Catherine cập bến, trên tàu có hai mươi ba người Do Thái. Họ trốn khỏi
thành phố cảng Recife, ở Brésil, nơi tòa án chống dị giáo lan đến.
(3) Golem: Trong truyền thuyết Do Thái ở Đông Âu, golem là một hình
nhân, lúc này lúc khác, người ta có thể truyền cho golem một linh hồn.
.sup">(3)
Theo Tiêu dao du của Trang Tử: Bắc Minh có loài cá, tên gọi là Côn, thân
lớn không biết mấy nghìn dặm. Khi biến thành chim gọi là Bằng (đại
bàng), sống lưng rộng không biết mấy ngàn dặm. Mỗi khi cất cánh bay lên,
sải cánh che phủ cả bầu trời. Lúc là đại bàng, thường theo sông đào mà đến
tận Nam Minh.
Tông Bá: quan thời cổ của Trung Quốc, coi giữ chuyện lễ nghi, phụ giúp đế
vương cai quản việc trong tông thất, nắm giữ việc tế lễ tổ tiên, đồng thời
quản tất cả phép tắc lễ nghi trong tông miếu và tông tộc.
Nghĩa là: Mơn mởn đào non, rực rỡ nở hoa, trích từ bài Đào yêu trong Kinh
Thi.
Hai chữ “yêu” và “dao” trong tiếng Trung Quốc phát âm gần giống nhau,
đều là “yao”, chỉ khác về thanh, nên Thiếu Hạo hiểu lầm.
Liễu ở đây không phải cây dương liễu, mà là một loại cây lá kim, hoa nhỏ li
ti, có màu trắng hoặc đỏ, sinh trưởng bên bờ nước hoặc ngay dưới nước.
Bướm trắng bốn cánh.
Loài cây được tôn xưng là thần thụ, sinh trưởng ở Thang cốc, nơi mặt trời
mọc.
Si Mỵ Võng Lượng: theo truyền thuyết là thuộc hạ dưới trướng Xi Vưu,
sau này được dùng để chỉ chung các loài yêu ma quỷ quái.
Nguyên văn: “
嘆隙中駒, 石中火, 夢中身” (Thán khích trung câu, thạch
trung hỏa, mộng trung thân), ba câu này rút từ bài Hành Hương tử của Tô
Đông Pha (1036-1101) thời Tống, có thể hiểu là: cảm thán thay, cuộc đời
thoảng qua như chớp mắt, chẳng khác nào bóng câu bay ngang cửa sổ,