ngắn, và được thực hiện theo thứ tự, bất chấp những tiếng ồn ào; từ thuyền
này sang thuyền khác, có thể vang lên những tiếng reo hò cổ vũ, hoặc tiếng
quát mắng khi làm không tốt – nhưng tất cả các mệnh lệnh đều phải được
nghe rõ, và tiến độ nhanh chóng phải không bị ảnh hưởng.
Do đó, đây là phương pháp truyền thống đã được những người La Mã sử
dụng. Tôi không rõ chính xác Alexander đã làm như thế nào để bắc cầu qua
sông Ấn, vì không có một ghi chép nào về việc này; dù vậy, tôi nghĩ việc
đó hẳn đã được thực hiện với phương pháp tương tự, hoặc cũng có thể
không – điều này không phải là vấn đề.
Ngay khi vượt qua sông, Alexander đã thực hiện tế lễ theo thông lệ và
tiếp tục hành quân tới Taxila, một thị trấn lớn và thịnh vượng – quả thực,
đây là thị trấn lớn nhất trong khu vực giữa sông Ấn và sông Hydaspes. Ở
đây, ngài tiếp tục nhận được sự đón tiếp nồng hậu của thống đốc Taxiles và
những người Ấn Độ trong khu vực này. Để đáp lại, Alexander cho phép họ
tùy ý sở hữu vùng lãnh thổ tiếp giáp với địa hạt của họ như họ yêu cầu.
Những đại diện từ Abisares, vua của những tộc người Ấn Độ sống trên đồi,
cùng với anh trai ông ta và những nhân vật xuất sắc khác, rồi những sứ thần
được thống đốc địa phương Doxareus gửi tới đều đã đến tiếp kiến ngài. Tất
cả những người này đều mang theo tặng vật. Ở nơi này, ngài cũng làm lễ
hiến tế như thường lệ và tổ chức những cuộc thi đấu công khai về thể thao
và cưỡi ngựa; tiếp đó, sau khi bổ nhiệm Philip, con trai của Machatas, làm
thống đốc địa hạt này, ngài tiếp tục hành quân tới sông Hydaspes, để lại
Taxila những người lính ốm yếu và không còn phù hợp với việc chinh
chiến.
Tin tức đưa đến cho biết Porus
cùng với tất cả những đội quân mà
ông ta có thể tập hợp đã ở bờ bên kia của sông Hydaspes. Vị thủ lĩnh này
tuyên bố hoặc sẽ ngăn chặn Alexander vượt sông hoặc sẽ tấn công ngài.
Alexander, do đó, đã cử Coenus, con trai của Polemocrates, quay trở lại
sông Ấn với chỉ thị chia nhỏ số thuyền đã được sử dụng trong lần vượt
sông Ấn và chuyển chúng tới sông Hydaspes. Mệnh lệnh được thực hiện,
số tàu chiến nhỏ hơn được chia làm đôi, những thuyền galley 30 mái chèo