QUÂN ĐỘI CỦA ALEXANDER ĐẠI ĐẾ
Vào mùa xuân năm 334, Alexander khởi hành từ Macedonia, rời
Antipater với 12.000 bộ binh và 1.500 kỵ binh để bảo vệ mảnh đất quê
hương và trông chừng những thành bang Hy Lạp. Quy mô của đội quân mà
cùng với nó, ngài đã băng qua eo biển Hellespont được ghi chép lại rất
khác nhau, tổng số dao động trong khoảng 30.000 tới 43.000 bộ binh và từ
4.000 tới 5.500 kỵ binh. Nhưng con số chi tiết mà Diodorus đưa ra: 32.000
bộ binh và 5.100 kỵ binh, về cơ bản, gần với tổng số mà Arrian (Ptolemy)
đưa ra, và có thể là con số chính xác. Quy mô và cách bố trí lực lượng giữ
khu vực chiếm được trên đất của địch tại Abydos – nơi chắc chắn đã có sự
xuất hiện của vài đội quân vào năm 334 – chưa được biết tới, nhưng có
nhiều khả năng nó chỉ là một lực lượng nhỏ và chủ yếu là bộ binh đánh
thuê.
Trụ cột của bộ binh là bộ binh hạng nặng Macedonia, “Bộ binh Chiến
hữu” (Foot Companions), đã được tổ chức dựa trên nền tảng quân địa
phương thành sáu tiểu đoàn (taxeis), mỗi tiểu đoàn khoảng 1.500 người.
Thay vì mang theo cây thương chín feet (gần 3 mét) như bộ binh hạng nặng
của Hy Lạp, bộ binh Macedonia được vũ trang với một thanh giáo hoặc
sarissa
khoảng từ 4 đến 4,3 mét, mà phải dùng cả hai tay mới sử dụng
được. Một tấm khiên tròn, màu sáng được đeo ở vai trái, nhỏ hơn tấm khiên
thường được lính Hy Lạp mang theo và sử dụng bằng tay trái. Cả bộ binh
Hy Lạp lẫn Macedonia đều mặc giáp và đội mũ sắt, nhưng có thể là lính
Macedonia không mặc giáp che ngực.
Đội hình phalanx (một thuật ngữ
tiện dụng để chỉ toàn bộ bộ binh Macedonia hạng nặng), giống như tất cả
những đội quân Macedonia khác, đều được vua Philip áp dụng một tiêu
chuẩn rèn luyện và kỷ luật xuất sắc. Không giống như đội hình phalanx mà
người La Mã đã chạm trán khoảng một thế kỷ trước, đội hình phalanx của
Alexander có tính cơ động cao và có khả năng áp dụng chiến thuật nhanh,
như chúng ta sẽ được thấy khi đọc sáu chương đầu tiên trong cuốn sách của
Arrian.