độc. Khi người H’mông, nhất là phụ nữ, gặp điều bất hạnh, không thiết sống nữa, thường
tìm đến cứu cánh ở ba lá ngón" (Diệp Đình Hoa 1998: 66-67)
.
Nhưng rồi, với những gì mà dân ca trình hiện - một bức tranh ảm đạm về đời người
phụ nữ - có thật sự đã đủ tư cách đứng làm đại diện cho thân phận người phụ nữ H’mông
trong cấu trúc xã hội tộc người? Ở chỗ này, tôi cho rằng nếu chỉ nhìn chằm chằm vào mỗi
mô hình dân ca của người H’mông, thì cái bẫy của sự đọc đã sập xuống. Người đọc sẽ là
một kẻ ngộ nhận. Bởi, ở chỗ này, chỉ nhìn vào dân ca thôi, người ta sẽ rất dễ nhầm tưởng
người H’mông là tộc người quá ư khắc nghiệt, tàn nhẫn đối với người phụ nữ
. Phải biết
vượt qua cái bẫy gài này, bằng cách mở rộng cái nhìn vào "không gian xã hội" tộc người,
vấn đề sẽ không còn đơn giản, mang mỗi một lớp nghĩa bi đát trong đời người phụ nữ như
sự kiện dân ca trình ra. H’mông tộc, trong sự thực sinh động thì đấy là một tộc người phụ
hệ đã duy trì được đáng kể "nền dân chủ tộc người" dành cho phụ nữ. Như Bonitacy cho
biết, xã hội nam quyền thì quyền cha mẹ nói chung được tôn trọng, nhưng ở vùng H'mong,
con cái kết hôn không cần sự thỏa thuận của cha mẹ (Bonitacy 2004). Tự do hôn nhân là
một vấn đề khá phổ biến trong văn hóa H’mông, thể hiện sự tôn trọng và tự do của người
phụ nữ.
Để hiểu sâu hơn vấn đề, chúng ta hãy cùng nhau xét chính hạt nhân cấu trúc quyền lực
tổ chức tộc người H’mông là dòng họ (Vương Duy Quang 2005). Người phụ nữ đã vượt
quá vai trò gia đình nhỏ bé. Họ vươn xa vị trí, vai trò của mình đối với số phận cộng đồng
lớn hơn là dòng họ. Đứng đầu mỗi dòng họ là một trưởng họ (hâuz pâus - cái gốc), "bộ
tham mưu" cho trưởng họ bao gồm người giữ quyền ma quyền khách, bà cô và thầy cúng
sơ đồ hóa bằng mô hình sau: