là mấu chốt hàng đầu của việc chinh phục Bắc Bộ (Bonifacy 1913). Như thế, từ sơ đồ bộ
máy hành chính Tày nói chung và Tày vùng Bảo Lạc nói riêng, có thể nhận thấy, tổ chức
hành chính vùng Tày về hình thức là cơ bản khá giống với tổ chức hành chính cấp tỉnh
miền xuôi thời trung, cận đại. Tuy nhiên, ở đây cần phải nhìn thấy những khác biệt của bộ
máy hành chính Tày, dù được tổ chức theo hành chính đồng bằng, giống về hình thức
nhưng có khác về nội dung. Chính sự khác biệt về "nội dung" hành chính ấy, như cách thức
tồn tại, tổ chức, thực thi quyền lực trong chính trị kiểu Tày là mấu chốt để tạo lập nên sức
mạnh của tộc người trong lịch sử. Người Tày đã tham dự vào lịch sử Việt Nam là không hề
thua sút Thái và Mường vùng Tây Bắc. Quyền tự trị tộc người luôn được đảm bảo, từ đó,
người Tày dù chịu sự can thiệp sớm của miền xuôi, song không vì thế mà sức manh địa
phương của họ bị suy giảm.
Cai trị vùng Tày là thổ tù địa phương quan chức hóa và quan lại người Việt thổ tù hóa
(Kinh già hóa Thổ), ta biết đến với tên gọi chung là thổ ty. Đặc điểm của thổ ty: "... là bày
tôi của triều đình, nhưng có quyền hạn rộng rãi hơn so với các quan lại cai trị ở các tỉnh
miền xuôi. Họ cha truyền con nối thống trị từng vùng, nắm mọi quyền hành về kinh tế (đặc
biệt là quyền quản trị và phân phối ruộng công), chính trị, quân sự, tư pháp, chịu trách
nhiệm nộp cống phú cho triều đình, và khi có giặc giã hoặc có ngoại xâm thì đem quân bản
bộ đi đánh dẹp theo mệnh lệnh triều đình" (Lã Văn Lô 1964b). Diễn đạt khác đi, thì thổ ty
là ông chúa của các "tiểu quốc bé vụn" - các "châu", lệ thuộc vào nhà nước miền xuôi,
nhưng trong địa phận của họ thì họ toàn quyền tự quyết. Và, như tàn tích của chính trị các
xã hội đẳng cấp, bên cạnh lớp người phục vụ chính trị thế tục, thổ ty còn một bộ phận quan
trọng là các thầy cúng phụng sự về đường tâm linh. Quyền lực của thổ ty, quằng Tày với
cộng đồng, như các hình thức lang, đạo Mường và tạo, phía Thái được đảm bảo thế tập cha
truyền con nối. Và thêm nữa, dù là mờ nhạt hơn Thái, Mường chút ít, sự đảm bảo của các
thủ lĩnh Tày cũng được xác nhận với các quyền năng thiêng qua lớp thầy cúng phục dịch.
Đẳng cấp quằng khác lớp quan lại miền xuôi còn ở chỗ quằng trong tâm thức người dân
luôn hiện lên với nguồn gốc xuất thân linh thiêng
. Xã hội Tày, vì thế, trên đại thể phân
làm hai đẳng cấp: đẳng cấp cai trị (thổ ty, quằng) và nông nô. Quan hệ của thổ ty và nông
dân trong thái ấp còn gọi là "lục trại" ("con trại"), như Lã Văn Lô (1964b) cho biết, thực
chất đấy là quan hệ giữa lãnh chúa và nông nô.
Về "thổ ty" và "quằng" - những vấn đề khá mù mờ, bởi các nghiên cứu dân tộc học về
chủ đề này đã chẳng có nhiều tiến triển hơn nửa thế kỷ qua, khiến cho sự hiểu không tránh
khỏi chồng chéo. Nguyễn Tuấn Liêu (1962) cho biết "thổ ty" là chỉ chung chế độ xã hội
phong kiến cùng kiểu ở nhiều tộc người, còn "quằng" là hình thức cai trị kiểu Tày. Lã Văn
Lô (1964b) thì lại cho rằng chế độ thổ ty còn gọi là quằng như trường hợp ở Bảo Lạc. Theo
Đặng Nghiêm Vạn quằng là cách nhà chúa tự qui định cho dân chúng khi gọi về tầng lớp
đặc biệt của mình, đàn ông nhà chúa phải gọi là quằng, chẩu; đàn bà nhà chúa thì gọi là