một quán tính khá quen thuộc khi nhìn về văn hóa H’mông trong sự ám ảnh, có những lúc
là “định kiến” với người Hán. Ám ảnh Hán, vì thế, là một biểu hiện đa chiều.
Ở đây, để làm rõ hơn vấn đề tôi thấy cần thiết phải XEN NGANG VÀI LỜI:
Điểm qua vài chi tiết, bên lề các văn bản, nhưng có lẽ là thú vị khi nó chứa đựng ở đó những sự kiện
cần phải phân tích khi trong quá trình thực địa và nghiên cứu H’mông tôi đã “va” phải. Mà qua đó, giúp
tôi/ta thêm hiểu ám ảnh Hán trong đa chiều tác động. Trường hợp đầu tiên là cuộc gặp gỡ của tôi với một trí
thức lớn người H’mông (mà tôi xin để ẩn danh như đúng ý muốn của ông), khi nói về vấn đề: với người
H’mông, điều gì là có ảnh hưởng lớn nhất đối với họ. Câu trả lời tôi nhận được, đó là: dân ca và “sự căm thù
đối với người Hán”. Sau suốt một buổi chiều “thăm hỏi”, tôi chào ông ra về. Vừa bước chân ra khỏi cổng
ngôi nhà tường trình rất đẹp, trong buổi chiều miền núi im ắng bao la, ông ngập ngừng gọi với tôi lại. Bắt tay
nhau thật chặt, ông nói với tôi giọng thân thiết, đại ý: như đã trả lời anh, sự căm thù của người H’mông đối
với người Hán là có thực, nhưng trong tình hình hiện nay (gần cuối năm 2011), thì khi viết về mối quan hệ
người H’mông với người Hán trong lịch sử mong anh khéo léo cho, kẻo có nhiều điều bất lợi cho chúng tôi.
Trường hợp thứ hai là trong một hội thảo quốc tế (Việt Nam học lần IV, 2012), sau phiên trình bày của tôi về
người H’mông và dân ca làm dâu của họ, một vị Giáo sư lão thành có ảnh hưởng rất lớn với giới nghiên cứu,
sưu tầm văn nghệ dân gian hiện nay đã đứng lên nhận xét. Trong đó, ông đã chia sẻ một luận điểm xuất phát
từ kinh nghiệm thực địa cá nhân. Những năm tháng gắn bó với người H’mông đã để lại trong ông hai ấn
tượng sâu đậm: một là, sự ai oán của tiếng hát làm dâu; và hai là, sự căm thù người Hán. Và, ông cũng nói
thêm trong phiên thảo luận Hội thảo: nhưng trong tình hình chính trị ở ta hiện nay, vấn đề nổi bật sự căm thù
người Hán của người H’mông mà nói ra thì chưa tiện. Thêm một trường hợp khác, từ ông tổng biên tập một
tạp chí chuyên ngành trong nước. Sau khi đọc duyệt một bài nghiên cứu H’mông của tôi, ông thích thú, đề
nghị đăng nhưng chỉ yêu cầu tôi một điều là phải cắt bỏ đi, và sửa lại sao cho “chấp nhận được” những phân
tích về ám ảnh Hán ở người H’mông. Vì, theo lời vị tổng biên tập nếu để nguyên thì không thể in được trong
bối cảnh quan hệ Việt - Trung căng thẳng hiện nay (cuối năm 2012). Trong khi ấy, hơn 30 năm trước, người
ta lại bàn luận rất công khai và sôi nổi trên các mặt báo chính thống chủ đề H’mông như một tộc tiền tiêu
của phong trào “giải Hán hóa”. “Quá tam ba bận”, tôi dẫn ra ba trường hợp trên, để đưa đến kết luận: rõ ràng
tồn tại những trở lực khá lớn trong bối cảnh cụ thể của đời sống học thuật Việt Nam luôn muốn xen vào
những diễn giải H’mông. Mở rộng ra, luôn tồn tại những thiết chế mang màu sắc phi học thuật đã can thiệp
vào các miêu tả và nhận định dân tộc học, cũng như khoa học xã hội nói chung. Điều này, chắc chắn đã góp
phần tham dự rất nhiều vào việc “chế tạo” các “cứ liệu dân tộc học” mà quan sát thực địa đã cho thấy một độ
vênh đáng kể. Và độ vênh ấy, lại tăng trưởng theo cấp số nhân ở các nhà nghiên cứu dân tộc học hay ngữ văn
dân gian hoạt động trong phòng giấy, “kế thừa” các công trình của “người đi trước” mà không có kiểm
chứng thực địa. Vì thế, diễn giải ngữ văn tộc người không thể thiếu đi nền tảng dân tộc học đích thực, nghĩa
là có sự sống trải với tồn tại tộc người, bằng chính lo-gic tộc người.
Đặt sang một bên chủ đề nóng trong tâm hồn H’mông: sự căm thù với người Hán, tộc
va chạm lịch sử với họ. Nhà quan sát ngữ văn dân tộc học đồng thời tìm thấy, cũng trong