được toàn thể dân chúng công nhận đã hoàn toàn lùi vào dĩ vãng, đã qua rồi
cái thời của vị vua anh minh như vua David, đã qua rồi cái thời của các tư tế
như Samuel và thời các ngôn sứ như là Nathan, những người đã nói chân lý
là sức mạnh. Vì thế, Thiên Chúa không mời gọi một ai ở bất cứ đâu nói lên
sự thật - một cách công khai mà không có những điều bí ẩn, và với sự lắng
nghe của mọi người - một người chăn cừu trên mình thoảng mùi hương
đồng cỏ, đã lớn tiếng nói lên sự thật cho đám người thiển cận mà tự mãn và
trên người lúc nào cũng nặc mùi nước hoa.
Amos được một người nhỏ tuổi hơn kết thân, đó chính là ngôn sứ
Hosea có cùng phong cách thuyết giáo với Amos, nhưng vì sự trải nghiệm
của chính mình với một người vợ phản bội, nên Hosea có thể làm phong phú
thêm lời thuyết giảng của mình bằng phép ẩn dụ về Israel rất ấn tượng như
người vợ trụy lạc của Thiên Chúa tràn đầy yêu thương. Nỗi khát khao của
Hosea về Gomer, vợ ông, đã không được đáp lại - và quá gần gũi với tình
yêu Thiên Chúa dành cho Israel đến nỗi không phải lúc nào cũng có thể
phân biệt giữa thực tại và phép ẩn dụ này:
“Bởi thế, nên Ta sẽ quyến rũ nó,
Đưa nó vào sa mạc, để cùng nó thổ lộ tâm tình….
Ở đó, nó sẽ đáp lại như buổi thanh xuân,
Như ngày nó đi lên từ Ai Cập.
Chính vì vậy phép ẩn dụ của lời tỏ tình và “cuộc hôn nhân chí thánh”
giữa Israel và Thiên Chúa đã được khơi dậy lần đầu tiên trong câu chuyện ở
sa mạc trong sách Xuất Hành, được cho là một bước ngoặt mới. Nhưng cả
Amos và Hosea đều mong đợi “Ngày của Đức Chúa”, một ngày khủng
khiếp của sự phục thù mà trong đó những kẻ bóc lột sẽ nhận được sự trừng
phạt công bằng của họ và, theo Amos, chỉ “những phần còn sót lại” mới
được cứu rỗi. Những hình ảnh về “Ngày của Đức Chúa” và “những phần
còn sót lại”, lần đầu tiên ta bắt gặp ở đây, sẽ bắt đầu thuộc về tầm quan trọng
đang gia tăng khi phong trào ngôn sứ mới mạnh lên.