Trước hết, chúng ta thấy một người đang chèo ghe trên mặt hồ.
Chúng ta hãy xem anh ta như một người có ý thức, nghĩa là có khả năng
tổng hợp những tri giác khác nhau.
Bây giờ chúng ta hãy thí dụ người chèo ghe này chưa bao giờ lặn
xuống, hoặc không có cơ hội biết được cái hồ này có một độ sâu, một đáy
hồ. Như vậy, anh ta nghĩ ngoài mặt hồ ra, không còn có gì khác nữa, cũng
giống như một con người không biết gì khác ngoài cuộc sống ý thức của
mình.
Vậy chừng nào anh ta mới nghĩ đến một giả thiết cho là có một đáy
hồ? Khi anh ta thấy một bọt hơi bị bể trên mặt hồ. Hoặc hay hơn thế, khi
một bọt hơi khổng lồ nổ ngay dưới chiếc ghe của anh ta, làm cho ghe anh ta
chòng chành…
Chỉ đến khi đó, người chèo ghe mới nhận ra có một phần vô hình,
tạo ra vài hiệu quả, và chỉ khi nào lặn xuống đó mới có thể khám phá được.
Cái phần vô hình đó là:
Vô thức
Một người vô thức (vô thức ở đây là tính từ) là một con người không
hề biết những sự kiện tâm lý và sinh lý của mình. Tình trạng này là tạm thời
đối với một người bình thường, bởi vì phần lớn những sự kiện vô thức có
thể lần lượt trở nên ý thức khi cần.
Thí dụ:
– Tôi không hề ý thức các nhịp tim của tôi, nhưng chỉ cần hướng sự
tập trung của tôi vào chúng là tôi có thể ý thức cảm nhận được chúng ngay.
– Tôi đang viết và ý thức việc làm này. Như thế tôi không hề nghĩ
đến người bạn Jacques của tôi. Tuy nhiên kỷ niệm về người bạn này vẫn
hiện hữu trong đầu của tôi. Tôi bất ngờ ngước mặt lên nhìn đồng hồ, và nhớ
lại cuộc hẹn mà bạn tôi đã hẹn với tôi. Đến lúc đó, Jacques mới trồi lên
phạm vi ý thức của tôi. Đương nhiên là các thí dụ này quá đơn giản và rõ
ràng.