CÔNG ĐỒN, CÔNG HÃM, CÔNG KIÊN,
CÔNG PHÁ, CÔNG PHẠT, CÔNG THỦ, CÔNG
THỦ ĐỒNG MINH
Cũng là đánh phá, tiêu diệt địch. Chữ công này có nghĩa như công
thuốc, nghĩa là thứ thuốc có tác động hại người. Công đồn nghĩa là phá
địch, đánh địch, làm cho địch bị hại, bị chết.
Công hãm là đem quân đến bao vây địch, đánh phá tiêu diệt đồn lũy
địch để cho địch chết ngay hay chết lần (vì không tiếp tế kịp).
Công kích là đánh bằng võ khí. Công kích khác với công kiên, nghĩa
cũng là đánh, nhưng đánh vào những nơi có công sự vững chắc. Chữ công
phá có ý nghĩa đánh nhưng đánh phá kịch liệt, trong khi công phạt cũng có
nghĩa là đánh phá nhưng không gợi được ý kịch liệt.
Trong chữ công thủ, không có ý gì đánh phá. Đó chỉ là danh từ nói tắt
« thế thủ » và « thế công », cũng như danh từ công thủ đồng minh vậy.
Công thủ đồng minh là sự liên kết giữa hai hay nhiều nước đồng minh
nhằm phòng bị trong thời bình và cũng đánh phá khi có chiến tranh.