thuật, phát huy tài năng thiên bẩm ở nhiều phương diện, chính là chuyển
lên sống ở tầng thứ hai; “Khát khao cuộc sống” lớn mạnh không thể làm
cho thầy hài lòng khi ở tầng thứ hai. Vậy là thầy leo lên tầng thứ ba làm
hòa thượng, tìm nơi tu tịnh, nghiên cứu giới luật. Đây là chuyện dĩ nhiên,
không có gì phải lạ.
Thầy sống rất nghiêm túc, lấy một ví dụ: Có lần tôi gửi một cuộn giấy
Tuyên Thành đi, mời đại sư Hoằng Nhất viết Phật hiệu, nhưng gửi hơi
nhiều, thầy liền viết thư hỏi tôi, giấy Tuyên Thành còn thừa nhiều thì xử lý
thế nào? Một lần khác, tôi gửi thừa tem phiếu, thầy đã gửi lại số tem phiếu
còn thừa cho tôi. Sau này tôi gửi giấy và tem phiếu đều phải nói rõ trước:
Nếu thừa thì xin tặng đại sư.
Mối duyên trần sư đồ giữa tôi và Lý tiên sinh trong thế gian này đã kết
thúc. Nhưng di huấn của thầy - Nghiêm túc - tôi vẫn mãi khắc ghi trong
lòng. Cổ nhân nói: “Xuất gia là chuyện của đại trượng phu, không phải cứ
làm cái mã ngoài là được.” Thầy đã xuất gia làm hòa thượng thì phải làm
cho giống hòa thượng.
Làm việc gì cũng phải làm cho giống, đây chính là thái độ làm người từ
trước đến nay của đại sư Hoằng Nhất. Làm con thì phải là một đứa con tận
hiếu; làm thầy thì phải làm người thầy giỏi; làm tăng nhân thì phải làm
tăng nhân cho triệt để. Những khi niệm Phật, đại sư Hoằng Nhất đều cẩn
thận kỹ lưỡng, phát âm chuẩn từng âm từng từ, ngắt nghỉ đúng chỗ, không
có tình trạng bỏ sót chữ hay đứt câu. Hơn nữa, khi niệm Phật, ngài sẽ
không để những yếu tố bên ngoài ảnh hưởng đến bản thân, không niệm thì
thôi, nếu đã niệm thì phải niệm hết trong một lần.
Sau khi xuất gia, ngài tuân thủ nghiêm ngặt giới luật, sống cuộc sống
khổ hành của tăng lữ. Ngài kiên trì với nguyên tắc “quá bữa không ăn”, mỗi
ngày chỉ ăn hai bữa sáng, chiều. Ai muốn mời ngài ăn cơm, thì phải mời