Những đặc trưng nổi bật của Đại học Đức là: (1) Sự thống nhất giữa
dạy học và nghiên cứu (Einheit der Lehre und Forschung); (2) Tự do dạy
(Lehrfreiheit) và Tự do học (Lernfreiheit).
(1) Sự thống nhất giữa dạy học và nghiên cứu là một trong những đặc
tính của Đại học hiện đại của Đức thế kỷ 19 và trở thành truyền thống của
Đức, có khác hơn ở Anh hay Pháp. Mỗi giáo sư là một học giả nghiên cứu
một cách độc lập và tự do. Người giảng dạy tốt phải là người nghiên cứu
giỏi, đó là phương châm. Người nghiên cứu giỏi phải có nhiệm vụ hướng
dẫn sinh viên đi vào nghiên cứu, do đó phải đảm nhiệm việc dạy học. Một
người được phép dạy (tức trở thành Privatdozent, để sau này trở thành
giáo sư) chỉ sau khi đã được công nhận là người nghiên cứu giỏi, được
cấp venia legendi (sau khi làm xong Habilitation). Cho nên những nhà
khoa học lớn đều là những người thầy của thế hệ trẻ hàn lâm. Đó là cuộc
tiếp xúc trực tiếp để chuyển ngọn lửa khoa học đến thế hệ trẻ tiếp nối.
Điều này làm cho tài năng phát triển nhanh chóng. Việc dạy học không
phải là việc từ chương từ sách vở mà là công việc hướng dẫn giảng dạy và
đào tạo sinh viên cách thức đi khám phá cái mới. Sự thật, cái mới là điều
phải luôn luôn đi tìm. Trong khi các bài giảng của giáo sư có tính cách
“dạy”, thì xê-mi-ne lại mang tính chất “tranh luận” và là nơi để sinh viên
được làm quen và tập luyện với việc nghiên cứu tìm tòi cái mới. Xê-mi-ne
là nơi sự tiếp xúc giữa giáo sư và sinh viên trực tiếp hơn, sinh viên tham
gia tích cực hơn với những ý tưởng mới của mình và tập sự những công
việc nghiên cứu khoa học độc lập đầu tiên. Sinh viên được tiếp xúc trực
tiếp với những tài năng đầu đàn. “Ai một lần được tiếp xúc với những tài
năng vĩ đại sẽ thay đổi thước đo tinh thần cho cuộc đời, và cuộc tiếp xúc
như thế là điều thú vị nhất cuộc đời có thể mang lại được.”
Helmholtz). Quan hệ giữa giáo sư và học sinh không phải là quan hệ trên
dưới. Cả hai đều là những người đồng hành, Mitstreiter, trong cuộc đi tìm
và khám phá chân lý.
Sự thống nhất của nghiên cứu và giảng dạy đã bắt nguồn từ đại học
Halle vào đầu thế kỷ thứ 18 dưới ảnh hưởng của triết học của Leibniz và
Christian Wolff. Phân khoa triết học của đại học Phổ này đã trở thành
trung tâm của sự tự do nghiên cứu trong các ngành vật lý, toán học, triết