NƯỚC NHẬT MUA CẢ THẾ GIỚI - Trang 87

nhận được. Trước sự phản đối ầm ĩ của Mỹ, ở Tokyo người ta áp dụng một kịch bản cổ
điển. Trước hết, làm bộ như không hiểu gì cả và thực lòng phản đối. Sau đó, người ta
khẳng định – phần nào đó có lý – rằng nếu sản phẩm của Mỹ không bán được trên thị
trường Nhật thì lý do chính là vì chúng không tốt bằng các sản phẩm cùng loại của
Nhật. Người ta thêm: nhất là các nhà công nghiệp Mỹ phải có những nỗ lực cần thiết
để thiết kế và sản xuất những sản phẩm thực sự phù hợp với nhu cầu riêng của khách
hàng Nhật Bản. Một chiến lược khác mà Nhật cũng đã quen dùng: tăng cường
lobbying (vận động hậu trường) ở Washington để làm dịu bớt căng thẳng. Để đạt mục
đích, người Nhật không ngần ngại thuê các cựu thành viên trong chính quyền Mỹ hoặc
gia đình họ nhằm sử dụng các quan hệ của họ tác động hiệu quả lên quốc hội và chính
phủ. Cuối cùng, ngày 28/12/1989, MITI ồn ào loan báo một chương trình mới khuyến
khích nhập khẩu, được coi là “chưa từng có trong lịch sử thế giới”. Nhật đơn phương
bãi bỏ thuế hải quan trên 1.008 mặt hàng công nghiệp và mỏ, đề ra những biện pháp
khuyến khích tài chính đối với các nhà kinh doanh Nhật nhập khẩu sản phẩm chế tạo.
Họ cũng thông qua khoản trợ cấp ngân sách tăng mạnh, lên tới 100 triệu đô la, nhằm
khuếch trương nhập khẩu bằng cách thiết lập một mạng lưới thông tin cho các nhà
nhập khẩu lẫn xuất khẩu và gửi các phái bộ thương mại ra nước ngoài.

Nhưng ở nước ngoài, người ta đã vượt quá điểm không thể trở ngược lại được.

Trong khi ở Washington sự ầm ĩ tiếp tục gia tăng, người ta giải thích rằng các yêu sách
của Mỹ là không thể đáp ứng được. Người ta nhấn mạnh: Nhật muốn phát triển công
nghệ vệ tinh riêng của mình. Với máy siêu điện toán cũng vậy. Về xây dựng, Nhật vẫn
bám lấy hệ thống đấu giá “thương lượng” là hệ thống cho phép các công ty Nhật bí
mật họp với nhau để quyết định chọn đấu thầu: một hệ thống tệ hại ngăn cản xí nghiệp
nước ngoài hoạt động trên thị trường xây dựng ở Nhật Bản. Còn về gạo, mà việc nhập
khẩu vẫn bị cấm ngặt ở Nhật Bản, chính phủ Nhật khẳng định đó là một sản phẩm thiết
yếu đối với an ninh của đất nước và sự tự túc về gạo vẫn là cần thiết. Mọi người đều
biết: gạo nước ngoài rẻ hơn gạo của Nhật rất nhiều và nhiều nông gia Nhật sẽ phá sản
tức khắc nếu sự cấm đoán nói trên được giảm nhẹ hoặc bãi bỏ. Nhưng, có một điều
không nói thẳng ra mà ai cũng biết là đảng Dân chủ-Tự do cầm quyền từ sau chiến
tranh đến nay nhưng đang bị giảm sút uy tín, không thể cho phép mình tiếp tục để mất
lá phiếu của cử tri ở nông thôn.

Để gia tăng áp lực, Mỹ đặt Nhật Bản vào đầu danh sách đen những nước bị coi là

buôn bán không sòng phẳng và lại dọa trả đũa về thương mại theo luật “siêu 301”. Ở
Tokyo, người ta vẫn còn nhớ rõ sự trừng phạt của Mỹ hồi tháng 3/1987. Một nhân tố
bên trong đã góp phần thuyết phục chính phủ Nhật rằng phải cấp bách tìm ra một giải
pháp danh dự: đó là công luận Nhật Bản bắt đầu đồng tình với các yêu sách của Mỹ.
Một cuộc thăm dò của nhật báo kinh tế Nihon Keizai Shimbun cho thấy 47% người
Nhật cho rằng yêu sách của Mỹ là có cơ sở trong khi 38% có ý kiến người lại. 48,8%
người Nhật cho rằng phải đáp ứng tích cực các yêu sách của Mỹ. Đơn giản là vì người
tiêu dùng Nhật Bản nhận thức rằng sự tự do cạnh tranh hơn nữa sẽ đưa đến giá cả hạ ở
thị trường trong nước.

Thương lượng và vỡ mộng

Tháng 7/1989, Nhật Bản bị buộc phải đi vào thương lượng với Mỹ. Những cuộc

thảo luận ấy, được gọi là “Sáng kiến về các trở ngại cơ cấu” đối với trao đổi thương
mại (Structural Impediment Initiative), thường được gọi tắt là SII, là những cuộc thảo
luận kéo dài và khó khăn. Ở Washington, nhiều lần người ta tin rằng sẽ không bao giờ
ký được thỏa thuận và sự bùng nổ của cuộc chiến tranh thương mại là không thể tránh

Liên Kết Chia Sẽ

** Đây là liên kết chia sẻ bới cộng đồng người dùng, chúng tôi không chịu trách nhiệm gì về nội dung của các thông tin này. Nếu có liên kết nào không phù hợp xin hãy báo cho admin.