PHẬT GIÁO NAM TÔNG TẠI VÙNG NAM BỘ
124
xuyên có mối quan hệ qua lại, giao lưu với nhau trên tất cả các bình
diện: xã hội, sinh hoạt, hôn nhân, lễ hội, tang ma, nhất là ngôn
ngữ và tôn giáo. Chính hiện tượng cộng cư, cộng sinh trên đã tạo
nên sự giao lưu văn hóa ở người Khmer Nam bộ.
19
Các ngôi chùa
Theravada ở ĐBSCL, bên cạnh chức năng tôn giáo, còn là nơi thể
hiện sự giao thoa văn hóa đặc sắc giữa các cộng đồng dân tộc anh
em cùng cộng cư trên vùng đất trù phú này. Tuy nhiên, trải qua thời
gian dưới tác động chủ quan và khách quan từ lịch sử, thiên nhiên
và con người, cộng với quá trình giao lưu văn hóa, Phật giáo Nam
tông ở ĐBSCL nói chung và các chùa Khmer nói riêng cũng đối
mặt với một số thực trạng. Bản thân các chùa cổ cùng các hạng mục
công trình cũng bị xuống cấp; công tác bảo tồn các kiến trúc và hiện
vật cổ chưa thật sự được đảm bảo; một số lễ hội bị biến tướng; một
số nét đẹp văn hóa cổ truyền chưa được phát huy giá trị...
Để Phật giáo Nam tông tiếp tục phát triển bền vững tại vùng đất
ĐBSCL. Từ đó, tiếp tục có những đóng góp cho mọi mặt đời sống
của cộng đồng, cần có những giải pháp chiến lược trong bảo tồn và
phát huy các giá trị di sản văn hóa Phật giáo Nam tông:
Trước nhất, cần có sự hợp tác chặt chẽ giữa Nhà nước, các cấp
chính quyền và cả cộng đồng trong bảo tồn các di sản văn hóa Phật
giáo. Đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu khoa học về giá trị di sản văn
hóa Phật giáo Nam tông, trong đó đặc biệt chú trọng đến các ngôi
chùa cổ. Tuyên truyền vận động nhằm nâng cao ý thức của cộng
đồng trong bảo tồn di sản. Đầu tư kinh phí để tu bổ, cứu nguy khẩn
cấp cho những công trình, hạng mục công trình đang xuống cấp.
Tuyên truyền, phổ biến và giới thiệu những giá trị đặc biệt của văn
hóa Phật giáo Nam tông đến đông đảo nhân dân, đặc biệt là thế hệ
trẻ và bạn bè quốc tế thông qua các phương tiện truyền thông như
sách báo, tạp chí, internet...
Cần bảo tồn những giá trị di sản văn hóa Phật giáo Nam tông
gắn với hoạt động văn hóa, giáo dục và du lịch. Có chiến lược bảo
19. Trần Hồng Liên (2010), “Giao lưu văn hóa Phật giáo của cộng đổng cư dân vùng biên giới Việt
Nam - Campuchia”, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, số 8/2010, tr. 10.