TRÍ THỨC NAM BỘ BƯỚC ĐẦU TRUYỀN BÁ PHẬT GIÁO NAM TÔNG
43
đều thống nhất như sau: Theran (tiếng Pali hay sthavira), (tiếng
Sanskrit) nghĩa là cũ, cổ xưa, lâu năm và đồng thời được dùng để chỉ
một tỉ - khâu đã tu hành lâu năm, dịch sang Hán - Việt là thượng tọa.
Còn veda (Pali) hay vadin (Sanskrit) nghĩa là giáo lý, quan điểm.
Theravada hay Sthaviravadin vì vậy có nghĩa là “giáo lý của người
xưa”, “thượng tọa bộ”.
3
Phật giáo Theravada (Phật giáo Nguyên thủy - Nam tông) có bề
dày lịch sử rất lâu đời, sự truyền thừa được các sử gia thừa nhận là
không bị gián đoạn. Điểm ưu việt của nó là truyền bá đến quốc gia
nào vẫn giữ được nét văn hóa Phật giáo đặc thù, mà những truyền
thống khác rất hiếm có. Hiện nay, Phật giáo Nguyên thủy có mặt ở
những quốc gia: Sri Lanka (Tích Lan), Miến Điện, Thái Lan, Lào,
Campuchia, Việt Nam, Anh, Mỹ, Ý, Úc, Mã Lai, Indonesia, Nepal,
Ấn Độ… Điểm đáng nói là tính thống nhất trong truyền thống
Nguyên thủy, chư tăng tụng kinh bằng tiếng Pali và tiếng bản ngữ,
tu hành y cứ theo thánh điển Pali, Tam y và bình bát là tài sản của
bậc xuất gia, chỉ ăn ngày một buổi, không ăn phi thời.
4
Phật giáo Theravada khi truyền bá vào Việt Nam có tên gọi là
Phật giáo Nguyên thủy – Theravada, hoặc Phật giáo Nam tông Việt
Nam. Hiện tại, Phật giáo Nam tông ở Việt Nam gồm hai hệ phái
chính: Phật giáo Nam tông Khmer và Phật giáo Nam tông Kinh.
Hai hệ phái cùng tồn tại và phát triển trong ngôi nhà chung Phật
giáo Việt Nam, là hai bộ phận không thể tách rời nhau.
1.1. Phật giáo Nam tông Khmer
Phật giáo Nam tông của người Khmer đã có mặt sớm ở vùng đất
Nam bộ và chính do người bản địa tạo nên. Đến ngày nay, những
ngôi chùa Nam tông của người Khmer ở Nam bộ có niên đại nhiều
thế kỷ qua và tồn tại, tiêu biểu là chùa Sanghamangala (chùa Hạnh
Phúc Tăng) thuộc tỉnh Vĩnh Long được xây dựng vào năm 632, là
chùa có niên đại lâu nhất so với các chùa Khmer khác trên địa phận
3. Hoàng Phong (biên dịch) (2014), Tìm hiểu Phật giáo Theravada – Ajahn Chah hỏi đáp. NXB
Hồng Đức, Hà Nội.
4. Thiện Minh (2017), Lịch sử Phật giáo Nam tông Việt Nam, NXB Hồng Đức, Hà Nội, tr. 50.