TRÍ THỨC NAM BỘ BƯỚC ĐẦU TRUYỀN BÁ PHẬT GIÁO NAM TÔNG
45
2. HOẠT ĐỘNG CỦA TRÍ THỨC NAM BỘ TRONG VIỆC TRUYỀN BÁ
PHẬT GIÁO NAM TÔNG VÀO SÀI GÒN – GIA ĐỊNH
Tầng lớp trí thức Nam bộ được ra đời trong quá trình khai thác
thuộc địa của Pháp, chính là lực lượng do Pháp đào tạo. Trong suy
nghĩ của họ vẫn mang tâm thế của một người dân Việt mất nước. Trí
thức Nam bộ do được tiếp xúc với nền văn minh phương Tây, tiếp
thu tư tưởng hòa bình, bác ái nên đã thổi bùng một luồng gió mới
khơi dậy ý thức đòi tự do, dân chủ cho chính đội ngũ của mình và
cả dân tộc mình.
Đầu thế kỷ XX, thực dân Pháp đẩy mạnh chính sách cai trị của
mình ở Đông Dương. Dưới tác động này, Phật giáo ở Việt Nam rơi
vào tình trạng thoái trào. Ngược lại, trên thế giới xuất hiện phong
trào khôi phục các giá trị Phật giáo. Tiêu biểu là ở Ấn Độ, ông
Anagarica Dharmapala là người đầu tiên chấn hưng Phật giáo. Năm
1913, ở Trung Quốc thì Thiền sư Thái Hư chủ trương cải cách Phật
giáo; ở Nhật Bản canh tân đất nước. Tình hình Phật giáo trên thế
giới đã có những chuyển biến mạnh mẽ, phần nào cũng ảnh hưởng
phần nào đến Việt Nam.
10
Tầng lớp trí thức ở Việt Nam đã sớm biết được của tình hình
Phật giáo thế giới thông qua Tân văn, Tân thư, hoặc nền Tây học
của Pháp ở Đông Dương. Nhiều nhân sĩ trí thức yêu nước và cao
tăng muốn chấn hưng, phát triển Phật giáo, đồng thời dùng ngọn
cờ Phật giáo đoàn kết các lực lượng chống Pháp giành độc lập dân
tộc. Đơn cử là cuộc vận động chấn hưng Phật giáo Việt Nam được
khởi xướng đầu tiên tại Sài Gòn vào năm 1920 gắn với sự hoạt động
của nhà sư Khánh Hòa (1878-1947), Thiện Chiếu (1898-1974)...
Từ xa xưa, Nam bộ là vùng đất mới, tập trung nhiều thành phần
dân cư. Cùng với đó là sự xuất hiện nhiều đạo mới. Năm 1849, ông
Đoàn Minh Huyên (1807-1856) sáng lập đạo Bửu Sơn Kỳ Hương;
năm 1867, ông Ngô Lợi (?-1890) lập đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa; năm
10. Thiện Hậu (2017), Phật giáo Nam tông Kinh Việt Nam (1938-1963), NXB Hồng Đức, Hà Nội,
tr. 10.