HỆ THỐNG TỔ CHỨC PHẬT GIÁO NGUYÊN THỦY (TỘC NGƯỜI KINH) VIỆT NAM (1938 – 1963)
57
Có thể phân chia Hệ thống tổ chức Theravāda Phật giáo Nguyên
thủy Việt Nam thành 2 giai đoạn: 1. Giai đoạn du nhập và hình
thành tổ chức hộ pháp tại Đà Nẵng (1953 – 1957); 2. Giai đoạn
thành lập hai tổ chức tại Sài Gòn (1957 – 1963).
1. GIAI ĐOẠN DU NHẬP VÀ HÌNH THÀNH TỔ CHỨC HỘ PHÁP TẠI
ĐÀ NẴNG (1953-1957)
Từ giai đoạn 1938 đến 1940, lễ kiết giới Sīmā và đặt tên chùa
Bửu Quang đã khai sinh một hệ phái tưởng chừng như không ai
có thể nghĩ ra và thực hiện. Từng bước, các cơ sở tâm linh, tự viện
được xây dựng tại Sài Gòn và mở rộng chùa tháp ra tận miền Trung,
Trung phần, đơn cử như: năm 1953 Tỳ khưu Giới Nghiêm cùng các
Phật tử Hà Thúc Diếu, Vĩnh Cơ… tạo dựng ngôi Tổ đình Tam Bảo
119c, Phan Chu Trinh, Đà Nẵng (nay 323 Phan Châu Trinh, Thành
Phố Đà Nẵng). Năm 1956, ở Huế, ngôi tự viện Tăng Quang Tự, tên
tiếng Pàli: Sangharànsyaràma; dân địa phương hay gọi là “chùa Áo
Vàng” được xây dựng và mở rộng: năm 1958, ở Giạ Lê tạo lập chùa
Định Quang.
8
Như vậy, tại miền Trung, chùa tháp ngày càng được tạo lập và
phát triển, từng bước được củng cố về tổ chức, hình thành trước và sau
khi thành lập tổ chức cư sĩ, trước cả Sài Gòn về mặt tổ chức.
Tại Đà Nẵng, Tỳ khưu Giới Nghiêm cùng các thiện nam Vĩnh
Cơ, Hà Thúc Diếu… lập một Ban soạn thảo đơn từ (với mục đích
xin thành lập Tổ chức cư sĩ với tên gọi: Hội Phật giáo Nguyên thủy
Việt Nam Trung Phần) bao gồm:
“1. Chánh Hội trưởng: Vĩnh Cơ, Thương gia, Hội đồng thành phố;
2. Nguyễn Ngô Riển, Chủ sự cơ xưởng hỏa xa Đà Nẵng, Phó Hội
trưởng; 3. Tôn Thất Thiệp, Chánh thư ký, công chức Việt Nam công
thương ngân hàng; 4. Đoàn Ngọc Châu, công chức hỏa xa, nghi lễ; 5.
Trịnh Đỗ Hách, Thầu khoán Đà Nẵng, kiểm soát; 6. Lê Văn Thừa,
nhân viên hỏa xa; 7. Hà Thúc Diếu, y tá bệnh viện Đà Nẵng, tài chánh
8. Thích Đồng Bổn (1995), Tiểu sử danh Tăng Việt Nam thế kỷ XX, NXB Tôn giáo, tr. 721.