của Xô viêt tối cao là “đần độn, hỗn láo và đầy giả dối”. Tschernajew, Die
letzten Jahre einer Weltmacht, tr.344.
Một số người Nga thân Xô viết quá thất vọng trước sự nổi lên của chủ
nghĩa dân tộc ở Lithuania bắt đầu rời khỏi Lithuania. Năm 1990, dòng
người khoảng 6.221 người rời đi nhưng năm 1991, con số này giảm xuống
5.504. Năm 1992, con số này là khoảng 13.672 người.
Lính mũ nồi đen thuộc Bộ Nội vụ. OMON đại diện cho đơn vị bán quân sự,
có nhiệm vụ đặc biệt.
Matlock, Autopsy on an Empire, tr.795. Sau này, ông thông báo với đại sứ
Mỹ rằng lúc đó ông không có lòng tin tôn giáo. Song, ông dần dần tin vào
Chúa và giá trị của những lơi cầu nguyện sau khi ông có cuộc sống an nhàn
sau cuộc đảo chính tháng 8/1991.
Tschernajew, Die letzten Jahre einer Weltmacht, tr. 373. Kohl nói với
Gorbachev rằng nếu ông tham gia cuộc gặp London với tư cách quan sát
viên, ông sẽ trở thành thành viên chính thức trong cuộc gặp năm 1992 tại
Munich.
Matlock, Autopsy on an Empire, tr.538. Niềm tin của bà Thatcher vào
Mikhail Gorbachev bị lung lay sau khi hai bên rời khỏi văn phòng. Năm
1992, Vladimir Bukovsky chỉ cho Thatcher bản sao một tài liệu có chữ ký
của Gorbachev, cam kết chi 1 triệu đôla cho Hiệp hội Công nhân mỏ do
Arthur Scargill lãnh đạo, trong khi thợ mỏ đang tiếp tục đình công chống
lại chính phủ của bà. Gorbachev đã thú nhận với bà không hề có bất cứ một
quỹ nào của Xô viết tài trợ cho công nhân mỏ Anh chống lại bà. Không
chắc chắn quỹ này có số tiền đó hay không.
Một số tác giả băn khoăn liệu Gorbachev có đóng góp một phần trong nỗ
lực khôi phục luật và trật tự bằng cách tách riêng văn phòng tổng thống với
nội các của mình. Nội các của ông, được trao một số đặc quyền, sẽ đưa ra
một vài cách thức mạnh mẽ để cứu lấy nhà nước Xô viết. Michael Urban,
Vyacheslav Igrunov và Sergei Mitrokhin, The Rebirth of Politics in Russia
(Sự tái sinh các nền chính trị ở nước Nga), (Cambridge, NXB ĐH
Cambridge, 1997), tr.247; Yu. Burtin, Demokraticheskaya Rossiya (Nước
Nga dân chủ hóa), 3/11/1991.