Từ đó đến nay, lịch sử Gruzia là biên niên sử những cuộc chiến tranh
được tuyên bố và thật sự diễn ra. Năm 2008, những gì Chính phủ
Tbilisi cố giới thiệu với phương Tây như một phần của cuộc “chiến
tranh lạnh” mới và cuộc tranh đấu chống sự phục hồi Liên Xô cũ bởi
Moskva (184), là một âm mưu chết người mà Gruzia mạo hiểm để
cuối cùng, sau 100 năm, nuốt chửng tính nổi loạn ấy bằng việc nhân
danh tự do và dân chủ.
Đối với Vladimir Putin, xung đột với Gruzia là sự khẳng định ý
tưởng: chính phương tiện quân sự là thứ ngôn ngữ dễ hiểu hơn với
phương Tây để giải thích cho những lợi ích riêng của Nga. Chiến
tranh trở thành điểm bước ngoặt và thuyết phục ông hoàn toàn vào
tính đúng đắn của giả định từ lâu rằng phương Tây, trước tiên là Hoa
Kỳ, cố sử dụng mọi khả năng để gây bất ổn cho tình hình nước Nga.
Không chỉ bối cảnh chiến tranh đã thuyết phục được Putin mà còn vì
việc sử dụng có chủ đích và gây căng thẳng có dụng ý mâu thuẫn sắc
tộc, kéo dài nhiều thập niên từ phía Hoa Kỳ - nước được dẫn dắt bởi
những đánh giá sai về tình hình và những quan điểm tư tưởng, tạo ra
những phạm vi ảnh hưởng địa chính trị và vượt qua biên giới cho phép
trong hoạt động chính trị. Chính từ đó, các chính khách phương Tây
bất lực trong việc đánh giá tính chất bùng nổ của tình hình. Gruzia là
cuộc diễn tập của Ukraine.
Nỗ lực của Tổng thống Gruzia Mikhail Saakashvili thúc đẩy việc
Gruzia gia nhập NATO dưới sự hỗ trợ của Hoa Kỳ đã bị thất bại (185).
Mặc dù thời điểm là thành công. Ở Hoa Kỳ đang bắt đầu chiến dịch
tranh cử, và cái tên Vladimir Putin cũng như một nhắc nhở về nước
Nga thôi cũng đủ gợi nên những kêu ca âm ỉ, có lợi để tận dụng.
Chính xác hơn, đó là cảm giác sợ hãi còn lại từ thời chiến tranh lạnh.
Mùa xuân năm 2008, khi Saakashvili xuất hiện ở Washington và nộp
đơn xin kết nạp Gruzia vào NATO, Tổng thống Hoa Kỳ đã hứa sẽ ủng
hộ. George Bush - con đang tại chức năm cuối. Trong số những người
Cộng hòa tham gia cuộc đua vào chức tổng thống có thượng nghị sĩ