An-dương vương phong làm Cao Cảnh-hầu, Em Ngài là Cao Tứ được
phong là Cao-dương hầu. Ngài là người phát minh ra nỏ thần, bắn một loạt
hàng ngàn mũi tên. Sau dân chúng huyền thoại hoá đi rằng vua Thục được
thần Kim-quy cho móng rùa làm nẫy nỏ. Trước đây, suốt một dãy bờ biển
từ Thanh-hoá đến Hà-nội nơi nào cũng có đền thờ hai Ngài.
Niên hiệu Trùng-hưng thứ 1 (1285) đời vua Trần Nhân-tông, sắc phong
ngài là Nghị-vương. Năm Trùng-hưng thứ 4 (1288) gia phong Cương-chính
Nghị-vương. Niên hiệu Hưng-long thứ 21 (1313) đời Trần Anh-tông gia
phong Uy-huệ Cương-chính Nghị-vương.
Hiện tôi còn tìm ra bốn đền thờ ngài:
1. Đền thứ nhất, ở số 13B phố Đào Duy Từ, Hà-nội,
2. Đền thứ nhì, ở đình Ngũ-đăng, Hàng-bè, Hà-nội. Tại đình Ngũ-đăng có
đắp tượng hai ông và con voi cùng tử tiết, với đôi câu đối:
“Tô chử nộ ba đào, nhất phiến tinh trung truyền Thục sử,
Loa thành huyền nhật nguyệt, cửu trùng hoa cổn tại Đinh triều”
Nghĩa là:
Sóng sông Tô-lịch cuồn cuộn sóng căm hờn, tấc dạ trung thành truyền sử
Thục.
Thành Cổ-loa treo cao vầng nhật nguyệt, áo hoa phong tặng tự Đinh triều.
Thời nhà Đinh, vua Đinh Tiên-hoàng là đệ tử phái Hoa-lư, hậu duệ của
ngài, khi lập được đại nghiệp, phong ngài là Trung dũng đại vương.
(Chi tiết về Cổ-loa, xem hồi 10 trong sách này),
3. Đền thứ ba, tại đình Ái-mộ, tổng Gia-thụy, nay là xã Gia-thụy, huyện
Gia-lâm, Hà-nội. Phổ của đình chép ngàigiữ chức Tả-tướng quân triều Âu-
lạc. Ngài là người chế ra nỏ thần, gọi là Linh-quang kim trảo thần nỗ. Sau
này, thế kỷ thứ tám, viên quan nhà Đường là Cao Biền, sang cai trị nước ta.
Y bịa ra rằng được ngài nhập mộng báo cho biết rằng sẽ đem Thần-nỏ cùng
âm binh giúp y đánh giặc Nam-chiếu. Y có làm bài thơ nói về giấc mộng
này như sau:
Mỹ hỹ Giao-châu địa,
Du du vạn tải lai.
Cổ hiền năng đắc kiến,