Quốc gia khởi nghiệp Ebook.vn
ngăn trở tự do ngôn luận, tự do học thuật, minh bạch chính phủ và áp đặt thời hạn cư trú.
Trong lúc vài quốc gia Ả-rập vùng Vịnh đang cân nhắc thị thực cư trú năm năm hoặc mười
năm, chưa có chính phủ nào thực sự cho phép điều này.
Các hạn chế cư trú cũng là triệu chứng của trở ngại lớn hơn cho việc thu hút các học giả:
Một số chuyên gia nghiên cứu đến đây làm việc và đã sớm nhận ra mong muốn của chính
phủ là giữ họ ở bên ngoài. Những luật bắt nguồn từ áp lực với các chính phủ là phải duy trì
chủ nghĩa dân tộc của người Ả-rập nói chung, và chủ nghĩa dân tộc chủ quyền nói riêng.
Chẳng hạn, một phụ nữ Emirati lấy một người nước ngoài làm việc ở UAE thì sẽ phải từ bỏ
quốc tịch của cô ta, và đứa con của họ sẽ không được cấp hộ chiếu UAE hay nhận được bất
cứ phúc lợi xã hội nào từ chính phủ.
Một trong những thách thức lớn nhất của nền văn hoá doanh nhân tăng trưởng cao ở thế
giới Ả-rập - bên ngoài vùng Vịnh - là các mô hình giảng dạy ở tiểu học và trung học hay ngay
cả bậc đại học đều chú trọng việc học thuộc lòng. Theo Hassan Bealaway, một nhà cố vấn
cho Bộ Giáo dục Ai Cập, việc học liên quan đến hệ thống, quy chuẩn và sự tôn trọng hơn là
sự thử nghiệm. Nó giống mô hình Columbia hơn là Apollo.
Việc nhấn mạnh vào tiêu chuẩn đã nhào nặn ra một chính sách giáo dục định nghĩa thành
công bằng cách đ đầu vào hơn là kết quả đầu ra. Chẳng hạn, theo một nghiên cứu của văn
phòng McKinsey & Company ở vùng Vịnh, các chính phủ Ả-rập đã sử dụng nhiều giáo viên
và đầu tư lớn vào cơ sở vật chất - các toà nhà (và hiện nay là máy tính) - với hy vọng cải
thiện kết quả của sinh viên. Tuy nhiên, kết quả mới đây từ chương trình Nghiên cứu Toán
học và Khoa học Quốc tế xếp các sinh viên Saudi hạng 43 trên 45 nước (Ả-rập Xê-út thậm
chí còn sau cả Botswana, xếp thứ 42)
[175]
.
Trong khi tỉ lệ trung bình giữa sinh viên và giáo viên ở GCC là 12:1 - tuy rất khả quan so với
mức trung bình 17:1 ở các nước OECD - thì vẫn không tạo ra tác động tích cực nào. Thật
không may, số liệu ở các nước cho thấy tỉ lệ sinh viên - giáo viên thấp không có mối liên hệ
mất thiết đến kết quả tốt của sinh viên, và không quan trọng bằng chất lượng giáo viên.
Song bộ trưởng Giáo dục của hầu hết các quốc gia Ả-rập đều không đánh giá chất lượng giáo
viên. Đánh giá chất lượng đầu vào dễ hơn nhiều, thông qua phương pháp chuẩn hoá.
Việc tập trung vào số lượng giáo viên đặc biệt tác động theo hướng có hại cho những nam
sinh Ả-rập. Nhiều trường của chính phủ được tách ra theo giới tính: Thầy giáo dạy nam
sinh, cô giáo dạy nữ sinh. Do nghề giảng dạy vốn có truyền thống ít hấp dẫn nam giới nên số
thầy giáo dành cho nam sinh bị thiếu hụt. Kết quả là vì số lượng thầy giáo ít, các trường nam
sinh thường tuyển vào giáo viên kém năng lực. Thực ra, khoảng cách về giới ở GCC trong
kết quả của học sinh được xếp vào hàng cao nhất thế giới.
Cuối cùng, có lẽ là nhân tố lớn nhất trong giới hạn của nền kinh tế tăng trưởng cao, chính là
vai trò của phụ nữ. David Landes thuộc Đại học Harvard, cũng là tác giả của cuốn sách
chuyên đề Tài sản và sự nghèo đói của các Quốc gia, nhận định rằng phong vũ biểu tốt nhất
cho tiềm năng tăng trưởng của một nền kinh tế nằm ở các quyền lợi và địa vị của người phụ
nữ. “Chối bỏ phụ nữ tức là tước đoạt nguồn lao động và tài năng của một đất nước... [và]