Quốc gia khởi nghiệp Ebook.vn
[84]
“Israel
15
Vision”
của
Học
viện
Reut,
institute.org/event.aspx?EventId=6.
[85]
Thông tin của đoạn này lấy từ The Political Economy of Israel: From Ideology to
Stagnation của Yakir Plessner, trang 11-31.
[86]
Ibid, trang 2.
[87]
“Inflation - the Rise and Fall” David Rosenberg trên trang Web của Bộ Ngoại giao
Israel (tháng 1 năm 2001), http://www.mfa.gov.il.
[88]
“Best
Places
to
Do
Business
in
the
Wired
World”
của
CNNMoney.com,http://money.cnn.com/galleries/2007/biz2/0708/gallery.roadwarriorssp
ecial.biz2/11.html.
[89]
“McDonalds” của Orna Yefet, Yediot Ahronot (29-10-2006).
[90]
Phỏng vấn Shlomo Molla, thành viên Knesset, Đảng Kadima (tháng 3 năm 2009).
[91]
Nỗ lực giải cứu bí mật này được tài trợ bởi Cục Tình báo trung ương Mỹ, lính đánh
thuê địa phương và cả quan chức an ninh Sudan. Chiến dịch được giữ bí mật chủ yếu vì lý
do chính trị - nhằm bảo vệ Sudan khỏi bất kỳ sự phản kích nào từ phía các nước Ả-rập, vốn
sẽ chỉ trích hành động trợ giúp Israel. Cuối cùng, khi câu chuyện về chiến dịch giải cứu bằng
máy bay vỡ lở, các nước Ả-rập đã gây áp lực buộc Sudan ngừng các chuyến bay, và họ đã
nghe theo. Việc này đã khiến một nghìn người Do Thái Ethiopia bị kẹt lại cho đến khi Chiến
dịch Joshua do Mỹ thực hiện mang họ đến Israel vài tháng sau đó.
[92]
Sách “Brothers and Keepers: Black Jews and the Meaning of Zionism” của Leon
Wieseltier.
[93]
Sách “Ethiopian Jews and Israelis Exult as Airlift Is Completed” của Joel Brinkley,
Thời báo New York (26-05-1991).
[94]
Sách “The Google Story” của David A.Vise và Mark Malseed, trang 15.
[95]
Phỏng vấn Natan Sharansky, Chủ tịch kiêm thành viên ưu tú của các tổ chức Adelson
Institute for Strategic Studies, Shalem Center và là nhà sáng lập của Yisrael B’Aliya (tháng
05-2008).
[96]
Phỏng vấn David McWilliams, nhà kinh tế học người Ailen và là tác giả cuốn “The
Pope’s Children” (tháng 05-2009).
[97]
Phỏng vấn Erel Margalit, người sáng lập quỹ đầu tư Jerusalem Venture Partners
(JVP) (tháng 05-2008).
[98]
Phỏng vấn Reuven Agassi (tháng 12-2008).
[99]
Trong khi điều luật mới đã trở nên cứng nhắc, Bộ Ngoại giao Mỹ đã chỉ đạo các quan
chức lãnh sự ở nước ngoài phải khắt khe hơn đối với những hồ sơ của những ai bị xếp loại
“public charge” trong luật nhập cư. Một “public charge” là một người không đủ khả năng
nuôi sống bản thân hay gia đình. Vào lúc bắt đầu của cuộc Đại Suy thoái, nhằm đáp lại lời
khẩn cầu của dân chúng trong việc siết chặt luật nhập cư, các lãnh sự viên ở nước ngoài
được chỉ đạo phải mở rộng mức độ diễn dịch khái niệm “public charge” nhằm loại bỏ hồ sơ
của những người chưa thật sự đáng bị xếp loại “public charge”. Quy định này đã trở thành
một quy trình hoàn toàn cảm tính.
[100]
>Sách “Paper Walls: America and the Refugee Crisis, 1938 - 1941” của David
Wyman.