xì và vui chơi tận hưởng ba ngày Tết đã bù đắp phần nào sự trông ngóng cả
năm trời của bọn nhóc trong nhà.
Sau 1975, cuộc sống thay đổi. Gia đình Hạnh sống khó khăn như mọi
người. Đến lúc phải ăn độn, chị Dung, đã trưởng thành, luôn tìm cách giúp
mẹ chế biến các món có sẵn như mì, khoai, bột mì thành những món lạ
miệng dễ nuốt. Món mà Hạnh còn nhớ là những ổ bánh mì ngọt chị làm từ
bột mì, thơm nức mùi bơ và trứng, ăn nóng khi mới ra lò. Lại nhớ những
hôm miệt mài phụ chị lột khoai mì, mài, lắng lấy bột, phơi khô. Rồi cán bột
để nấu bánh canh... Mỗi tuần, khi bác tổ trưởng tổ dân phố đi từng nhà hô
to: “Lãnh bánh mì bà con ơi!” là chính cô bé xung phong khệ nệ ôm bánh
về, đâu có thịt hay chả gì, sang lắm cũng chỉ vài cái trứng quậy lên. Chị
Dung còn xào củ sắn với ít thịt băm làm nhân hay hấp lên làm bánh mì hấp
nước mắm mỡ hành,... chỉ thiếu nguyên liệu chính là bì thôi. Rồi nào là mì
nước, mì xào, nui nước, nui xào... Nói chung nhà nước bán gì mấy chị em
cũng ăn được hết, từ bo bo, gạo còn lẫn bông cỏ, khoai lang... Lúc đó, nhà
Hạnh đã bán hết xe máy. Ba Hạnh vốn tự trọng và giữ lễ, đầu năm vẫn giữ
nếp đi xe đạp chúc Tết mọi người trong họ, chưa kịp đi hết là lòng áy náy
không yên. Mẹ Hạnh cố gắng xoay xở, xuống lề đường trải tấm nylon để
mua bán đồ cũ... mua từng nửa ký gạo thay vì khi xưa thường gọi đem cả tạ,
sữa mua thùng... Lúc có xoài ăn, bà cắt phần thịt cho mọi người, mình thì ăn
hột. Trưa bà không dám gọi cơm khi đi bán, chỉ mua vài cái bánh chiên của
mấy cô bé đội đầu bán dạo, đợi tới tối về nhà ăn cơm. Bố Hạnh quên từng là
công tử nhà giàu, thích ứng với hoàn cảnh, hút thuốc loại rẻ nhất, khét lẹt
thay vì thuốc lá ngoại thơm... Cả hai ông bà cố nhịn tối đa để có thể nuôi
đàn con quá đông.