c) Nhân bản vô tính nhờ nuôi cấy mô
Để tạo nên các giống cây trồng có sản lượng cao, thích nghi với điều kiện
sinh thái, các nhà trồng trọt thường sử dụng nhiều kỹ thuật tạo giống như: bằng
phương pháp lai hữu tính, bằng phương pháp gây đột biến nhân tạo, bằng
phương pháp đa bội thể. Để nhân giống nhanh, người ta thường sử dụng các
biện pháp sinh sản dinh dưỡng (vô tính) như kỹ thuật giâm cành, chiết, ghép
cành, v.v... Những biện pháp trên đây đã đem lại những thành tựu to lớn của
cuộc cách mạng xanh từ những năm 60 của thế kỷ XX và đã cứu hàng trăm
triệu người thoát khỏi nạn đói kém. Nhưng với sự phát triển của nền kinh tế thế
giới, những công nghệ tạo giống cây trồng trên đây không đáp ứng được nhu
cầu về sản lượng lương thực, thực phẩm mà nhân loại trên 6 tỷ người đòi hỏi.
Công nghệ sinh học giống cây trồng đã kết hợp các công nghệ truyền thông với
công nghệ sinh học hiện đại (như công nghệ nuôi cấy mô để nhân bản vô tính,
lai tế bào trần, chuyển gen, v.v...) mà đại diện là công nghệ vi nhân giống.
Dựa trên nguyên lý các tế bào soma của cơ thể trưởng thành đều có bộ
nhiễm sắc thể và hệ gen như của hợp tử và mang đủ thông tin di truyền quy
định cho sự sinh trưởng và phát triển của một cơ thể mới. Các miếng mô lá,
thân, hoặc rễ (đặc biệt là mô phân sinh và mô mềm) được nuôi cấy trong môi
trường thích hợp có đủ chất dinh dưỡng cần thiết với chất kích thích sinh
trưởng (auxin, xytokinin, v.v...), các tế bào sẽ phát triển thành mô sẹo (callus)
là mô khảm chưa phân hóa, chúng có khả năng biến đổi thành các phôi soma,
từ đây sẽ phân hóa phát triển thành các bộ phận của cây và cây toàn vẹn. Các
nhà công nghệ tế bào đã sử dụng phương pháp nuôi cấy tế bào thực vật và
nhân bản vô tính invitro để sản xuất nhiều sản phẩm (hợp chất từ thực vật), các
cơ quan hoặc cây toàn vẹn với nhiều đặc tính mong muốn (hình 7.1).