phải vì trong nước Triệu không có ai tài năng và mưu trí như ngài. Nhà vua
cắt đất Đông Vũ Thành để phong cho ngài, không phải vì ngài có công, còn
người trong nước thì không có công, mà chỉ vì ngài là thân thích đó thôi.
Ngài sở dĩ nhận ấn tể tướng không từ chối vì cớ mình bất tài, được cắt đất
không từ chối vì cớ mình không có công, đó cũng vì ngài tự cho mình là
thân thích. Nay nếu nhân việc cầu được Tín Lăng Quân cứu Hàm Đan mà
xin đất phong, thế tức là ngài một mặt được phong ấp vì cớ là thân thích, lại
một mặt kể công để được phong như mọi người thường trong nước, thực là
không hợp lý chút nào. Vả chăng Ngu Khanh nắm cả hai mặt. Nếu việc
thành thi ông ta nắm cái khế đòi nợ ấy để đòi ngài báo ơn; nếu việc không
thành thì ông ta vẫn được cái hư danh khiến ngài phải chịu ơn ông ta. Ngài
nhất định đừng nghe.
Bình Nguyên Quân bèn không nghe lời Ngu Khanh.
Bình Nguyên Quân chết năm thứ mười lăm đời Hiếu Thành Vương nước
Triệu (-251 trước công nguyên). Con cháu nối dõi đời đời, mãi đến khi
nước Triệu mất mới hết. Bình Nguyên Quân hậu đãi Công Tôn Long. Công
Tôn Long giỏi lối bàn kiện, bạch (cứng, trắng) (9) đến khi Trâu Diễn (10)
sang Triệu nói đạo lớn, Bình Nguyên Quân bèn truất Công Tôn Long.
1. Ngu Khanh là một kẻ sĩ du thuyết. Ngu Khanh mang dép mo, áo tơi đến
du thuyết Hiếu Thành Vương nước Triệu. Ngu Khanh yết kiến lần thứ nhất
được nhà vua cho trăm dật vàng (11), một đôi ngọc bạch bích. Ngu Khanh
yết kiến lần thứ hai được làm thượng khanh (12) nước Triệu, cho nên hiệu
là Ngu Khanh. Nước Tần và nước Triệu đánh nhau ở Trường Bình (13),
nước Triệu không thắng, mất một đô uý. Vua Triệu cho mời Lâu Xương và
Ngu Khanh vào nói :
- Quân đánh không thắng, đô uý lại chết, bây giờ quả nhân có nên sai quân
cuốn giáp xông vào quân địch (14) không?
Lâu Xương nói :
- Vô ích, không bằng sai đại sứ đi cầu hoà.
Ngu Khanh nói :
- Ông Xương sở dĩ nói cầu hoà, vì cho rằng nếu không cầu hoà thế nào
quân cũng thua to. Nhưng việc muốn hoà hay không là tuỳ ở nước Tần.