sơ, một số binh đoàn ở Páp-lốp-xcơ, Nô-vai-a Ca-lít-va, Mác-cốp-ca và Va-
lui-ki.
Tuyến phòng ngự của Phương diện quân Thảo nguyên kéo dài từ Li-vơ-
nư theo con sông Cơ-se-nhơ và tiếp theo đến thượng lưu sông Xây-mơ.
Tuyến phòng ngự thứ ba của phương diện quân kéo dài theo tuyến Véc-
khô- vi-ê - Li-vơ-nư - Ê-vơ-la-nô-va - Đôn-gô-ê - Tim – Xcô-rốt-nôi-ê -
Tséc-ni-an-ca - Bu-đi-on-nôi-ê, hầu như đi suốt từ bên này qua bên kia vòng
cung Cuốc-xcơ.
Tuyến phòng ngự thứ hai của phương diện quân ở chếch về phía Tây, từ
Ê-vơ-la-nô-va ngoặt về phía Vô-rô-bi-ốp-ca, sau đó từ phía Tây ôm lấy
Cuốc-xcơ một nửa vòng, qua Xôn-txê-vô đến Man-tu-rốp, rồi từ đó đến Gơ-
ni-lôi, Vô-lô-cô-nốp-ca và Va-lui-ki. Tuyến thứ nhất của phương diện quân
chạy qua Ôn-khô-vát-ca, Pha-tê-giơ, Liu-bi-mốp-ca, Ma-ri-nô, Cô-rô-tsa,
Sê-bê-ki-nô và Cu-pi-an-xcơ.
Gần sát với tuyến mặt trận và gần như lặp lại hình dáng của nó là dải
phòng ngự thứ ba, thứ hai của tập đoàn quân và dải phòng ngự chủ yếu.
Đằng sau các tuyến đó là lực lượng dự bị tác chiến (các tập đoàn quân xe
tăng 1, 2 và tập đoàn quân 69) và các thê đội hai của các Phương diện quân
Trung tâm và Vô-rô-ne-giơ ở gần Pô-nư-ri, Ôn-khô-vát-ca, Cuốc-xcơ, Bê-
lưi, I-vơ-ni-a, Ô-bô-i-an, Rơ-gia-va, Prô-khô-rốp-ca, A-lếch-xan-đrốp-xki,
Xcô rốt-nôi-ê và Cô-rô-tsa.
Chỉ riêng việc kể ra các lực lượng như thế cũng cho ta thấy rõ các nhà
lãnh đạo đất nước đã chú trọng vấn đề đặt kế hoạch và bảo đảm cuộc phòng
ngự có chủ định như thế nào. Giả dụ như địch có thể chọc thủng được
(nhưng chúng đã không làm được việc đó) thì trên đường đi không phải
chúng sẽ được tự do tung hoành, mà sẽ gặp những sự cản trở khó vượt qua
được và phải đương đầu với những cánh quân to lớn ngăn chặn chúng.