người được có, quá số đó phải bán cho nhà nước, nhà nước mua rồi di dân
lại cho làm, để thu thuế. Ông áp dụng ngay vào miền phía nam của Nam
Kinh, nơi các đại thần có nhiều ruộng đất, nhưng bọn đại địa chủ giết ông
và chính sách đó phải bãi bỏ (1295)
2.Công Nghiệp
Có ba ngành phát nhất
a. Nuôi tằm, dệt lụa Tô Châu, gần Hàng Châu có nhiều xưởng dệt dùng cả
ngàn người thợ.
b. Thuật in phát sinh trong các tu viện (Phật Giáo và Đạo Giáo) để in hình
phật, bùa chú....rồi tới thế kỷ IX, X mới phát triển ở ngoài đời từ Tây Tứ
Xuyên xuống đến hạ lưu sông Dương Tử: lịch, sách coi số, từ điển nho
nhỏ. Giữa thế kỷ thứ X mới xuất hiện những kinh, thư của Khổng giáo in
bằng mộc bản do lệnh của triều đình, trước đó người ta phải dùng giấy vỗ
lên các tấm bia bằng đá rất hiếm, chỉ có ở kinh đô. Từ 960, người ta in
nhiều kinh phật. Cũng vào khỏan đó đã có người dùng hoạt tự bằng đất
nung, gỗ hay thiếc, nhưng phải dùng khỏan 7000 chữ, rất bất tiện, mà in
như vậy ko đẹp, nên thuật đó lần lần không ai dùng.
c. Đáng kể nhất là đồ gốm, đồ sứ. Đồ sứ đạt đến tuyệt đích ở đời tống và
nổi danh khắp thế giới.Có rất nhiều lò ở khắp nơi. Tại Bắc là lò Định Châu,
Từ Châu, tại Trung Nguyên là lò Nhữ Châu, Quân Châu.......tại Nam là lò
Long Tuyền (nổi danh nhất), Tu Hội.....
Đồ sứ là những đồ gốm gần như pha lê, khoáng chất dùng là cao lãnh
(kaolin) và một thứ thạch anh trắng gọi là "bạch đôn tử"(quartz). Người ta
nặng thành đồ, phủ lên một lớp men trắng rồi mới bỏ vô lò nung, có khi
người ta vẽ, sơn lên men rồi nung lại. Có những người thợ chuyên môn vẽ
hoa, loài vật, phong cảnh, tiên, thánh.....
Các nhà chuyên môn, sành nhất về đồ sứ cho rằng không đồ sứ cổ nào hơn
được đời Tống; đời Minh, Thanh điều kém. Từ vua tới dân ai cũng thích đồ
sứ, nó tràn ngập trong nước: chén, dĩa, bình, vại, chúc đài, bàn cờ.......Lần
đầu tiên người ta thấy xuất hiện những đồ sứ xanh như ngọc thạch, gọi là
Đồng Thanh(céladon)(1) (mà bao lâu nay các nhà đồ gốm vẫn ước ao chế
tạo )được, còn các nhà sưu tập đồ cổ thì tranh nhau mua. Vua Ai Cập, Thổ