là đem đất đai cho các ông mượn, các ông vốn thua trận từ xa đến, không
có gì làm đất riêng vậy. Nay đã lấy Ích Châu, vậy mà không có ý trả về, nhà
nước chỉ xin lại ba quận, lại không chịu nghe”. Lời nói chưa xong, có một
người ngồi nói: “Đất đai chỉ thuộc về người có đức mà thôi, muốn có dễ
sao”! Túc lớn tiếng mắng người đó, lời lẽ rất khẩn thiết, Vũ cầm đao đứng
dậy nói: “Đấy là việc của nhà nước, ta sao biết được”! Liếc mắt sai người
ấy đi ra.
Ngô thư viết: Túc muốn gặp nói chuyện với Vũ, các tướng nghi sợ có
biến, bàn không nên đến. Túc nói: “Việc của ngày nay nên cùng nói cho rõ.
Lưu Bị quên ơn, việc đúng hay sai còn chưa quyết, Vũ cũng dám muốn làm
trái lệnh sao”! Bèn liền đến chỗ Vũ. Vũ nói: “Ở trận Ô Lâm, thân Tả
Tướng quân
ở trong trận, ngủ chẳng cởi giáp, gắng sức phá quân Ngụy,
há không vất vả, không được phong một mảnh đất nhỏ sao, mà sao túc hạ
đến muốn thu lại đất vậy”! Túc nói: “Không phải. Lúc trước mới cùng Lưu
Dự Châu đứng xem sự biến ở Trường Bản, quân của Lưu Dự Châu không
đủ một đội, kế cùng lo lắm, chí khí suy yếu, chỉ mong muốn đi xa tránh nạn,
chẳng mong được như thế. Chủ ta thương xót Lưu Dự Châu không có chỗ
ở, không yêu lấy công lao của quân sĩ mở đất, sai các chỗ che chở cứu giúp
nạn, vậy mà Lưu Dự Châu mưu muốn chiếm riêng, đức hạnh lầm lỡ, tiếng
tốt hủy hoại. Nay đã lấy được Tây Châu
rồi, lại muốn cắt chiểm cả Kinh
Châu, việc này dẫu kẻ thất phu cũng không nỡ làm sai, huống chi là người
chủ đứng đầu của vạn người! Túc nghe nói rằng tham của mà vứt đạo
nghĩa, tất bị họa đến thân. Ta thấy ông gánh vác việc lớn, đã không làm rõ
đạo lí, chia rành chức phận để giữ lễ nghĩa, mà lại cậy dựa quân gầy yếu
để mưu tính tranh giành, đem quân già yếu, sao mà giành lấy được”? Vũ
không đáp được.
Bị bèn chia sông Tương làm ranh giới, do đó bãi quân.
Túc chết vào năm bốn mươi sáu tuổi, bấy giờ là năm Kiến An thứ hai
mươi hai. Quyền bày lễ cử tang, lại đến thăm mộ Túc. Gia Cát Lượng cũng
lấy lễ cử tang.