Tán kỵ thường Thị: Chức danh, đời Tấn là cố vấn tuỳ tùng Hoàng
Đế.
Vệ Uý: Chức quan, đời Tân chưởng quản quân khí, nghi trượng, màn
trướng của Hoàng Đế.
Kỵ Đô Uý: Một trong ba chức Đô Uý đời Tấn, thường chỉ được
phong cho ngoại thích.
Lưu Hướng: Danh nho, nhà văn hoá lớn đời Hán.
Dương Hùng: Danh nho Đông Hán, khi Vương Mãng lập triều Tân
từng nhảy lầu tự sát để tỏ thái độ bất hợp tác (nhưng không chết)
Đông Cung Tẩy Mã: Tuỳ tùng đôi khi là bạn học của Thái Tử.
Lý Hùng: Người tộc Ba thuộc Đãng Cừ quận Ba Tây, khai quôc
Hoàng Đế nước Hán Thành thời thập lục quốc.
Vĩnh Hoà: Niên hiệu của Tấn Mục Đế, Vĩnh Hoà thứ ba là năm 347.
Hoàn Ôn: Đại tướng, danh thần Đông Tấn.
Hứa Do được tiếng là người hiền, vua Nghiêu vời vào để truyền
ngôi. Do từ chối, cười mà về rồi ra suối rửa tai. Sào Phủ mới dắt trâu tới
suối uống nước, thấy Do rửa tai, bèn hỏi tại sao. Do trả lời: “Ông Nghiêu
đòi tôi, biểu tôi thì làm vua.” Phủ bèn dắt trâu bỏ lên trên giòng nước cho
uống. Do hỏi tại sao, Phủ đáp: “Anh rửa tai anh xuống đó tôi sợ trâu tôi
uống nhằm.”
Vương Thực: Trung thần nước Tề thời chiến quốc,lúc Yên đánh Tề,
muốn phong quan chức cho Vương Thục thì ông ta nói “ Trung thần bất sự
nhị quân, trinh nữ bất cánh nhị phu’.
Viên, Ý: Chưa rõ là ai.
Mặc Trữ: Được nhắc đến trong Tam Quốc diễn nghĩa như bạn của
Hoa Hâm, đại nho đương thời, ẩn cư ở Liêu Đông khi quay về Trung Quốc
theo lệnh đòi của Tấn Vũ đế bằng đường biển gặp bão các thuyền trong
đoàn đều đắm chỉ riêng thuyền Mặc Trữ thoát nạn, được cho là có thần
linh phù hộ.