mở mang điềm lành cho thời thế tới, trải qua chuyển vận đi đến chấn hưng
- Tán Chiêu Liệt Hoàng Đế.
Trung Vũ xuất chúng tài ba. Dâng kế chỗ bến sông, dựa vào Ngô, nắm
lấy Thục, quyền biến của bản thân xác đáng với thời cuộc. Nhận di chiếu
làm chấp chính, sửa sang võ bị, sắp đặt điển chương, bày ra giáo hoá phẩm
hạnh, lo liệu đổi thay lề lối khiến kẻ hiền người ngu đều hết lòng đến quên
cả thân mình. Gĩư yên khắp trong nước, luôn luôn vào đất giặc, làm rạng rỡ
uy phong. Một lòng vì việc nước, hận chưa thoả ước mong - Tán Gia Cát
Thừa Tướng.
Tư Đồ phong thái thanh cao, khi đàm luận khi bàn bạc, mở lòng thương
đến nhân quần, âm vang như tiếng ngọc khua - Tán Hứa Tư Đồ.
Quan, Trương hùng dũng, xuất thân giúp đời, dìu dắt vương sư, mạnh mẽ
oai hùng, che trở cho tả hữu, chuyển thân bay bổng như điện chớp. Vượt
gian nan giúp chúa thành đại nghiệp, công tích ngang Hàn, Cảnh, thanh
danh đức độ kề nhau. Đối với người không kể lễ, xét rõ được kẻ gian,
thương nỗi coi nhẹ điều lo nghĩ mà vì nước bỏ mình - Tán Quan Vân
Trường, Trương Ích Đức.
Phiêu Kỵ quật khởi, liên kết các nơi, tập hợp thủ hạ, đứng đầu Tam
, giữ vừng Đồng, Hà
. Tổ tông mưu tính cho triều đình mà bị nghi
ngờ này nọ, để kẻ thù thừa cơ xích mích nên ra nỗi binh bại nhà tan. Ngược
đường về với đức, gởi gấm vào phượng, nương tựa vào rồng - Tán Mã
Mạnh Khởi.
Dực Hầu cao mưu, lo liệu thời thế hưng suy, phó thác chí lớn vào chân
chủ, lúc thuận tòng khi thương thảo, vừa toan tính đã định ra sách lược,
nhìn sự việc biết huyền cơ - Tán Pháp Hiếu Trực.
Quân Sư tài giỏi, ngời ngời phong độ thanh cao, dốc hết vận số vì minh
chủ, trung thành từ tận trong tâm, chỉ nghĩa ấy đã đủ để tôn sùng, huống hồ
báo đức quên mình - Tán Bàng Sĩ Nguyên.
Tướng Quân đôn hậu hào hùng, bẻ núi cao, vượt gian khó, dựng lên huân
lao lập thành sự nghiệp, chính là cốt cán của một thời - Tán Hoàng Hán
Thăng.