Chưởng Quân thanh thao cần kiệm, chẳng theo lề lối ngày thường, lời
thẳng thắn chỉ lo cho việc nươc, dân vẫn nhớ đến phép tắc của ngài - Tán
Đổng Âú Tể.
An Viễn ý chí cương cường, nghi ngơi vẫn còn hiển hách, coi nhẹ tài vật
thành tích lớn lao, gắp khó khăn chẳng sờn lòng, lấy ít thắng nhiều, giữ tròn
sự nghiệp một phương xa - Tán Đặng Khổng Sơn.
Khổng Sơn tên là Phương, người Nam Quận. Làm Kinh Châu Tòng Sự
rồi theo Tiên Chủ vào Thục. Đất Thục được bình định, ra làm Kiện Vị
Chúc Quốc Đô Úy, nhân khi đổi tên các quận chuyển làm Chu Đề Thái Thú
rồi được chọn làm An Viễn Tướng Quân, Trù Hàng Đô Đốc đóng ở huyện
Nam Xương. Chết năm Chương Vũ thứ hai. Việc làm bị thất truyền nên
không viết thành truyện.
Dương Uy là bậc tài năng, thở than văn vũ, gánh vác quốc sự, sửa sang
chức trách, vui vầy đặt ra lề lối luận đàm, mưu toan việc kinh thương lại có
tài thực hiện, có nghĩa lý, biết thứ tự - Tán Phí Tân Bá.
Tân Bá tên là Quan, người huyện Minh quận Giang Hạ. Mẹ Lưu Chương
là cô họ Quan. Chương lại gả con gái cho Quan. Vào năm Kiến An thứ
mười tám, Quan theo quân Lý Nghiêm ra chống Tiên Chủ ở Miên Trúc, rồi
theo Nghiêm cùng ra hàng. Tiên Chủ bình định Ích Châu, bái Quan làm Tỳ
Tướng Quân, sau làm Ba Quận Thái Thú, rồi Giang Châu Đô Đốc. Năm
Kiến Hưng nguyên niên (Quan) được phong Đô Đình Hầu, thêm chức Chấn
Uy tướng Quân. Quan giỏi giao tiếp. Đô Hộ Lý Nghiêm tính cách kiêu
ngạo tự cao. Hộ Quân Phụ Khuông tuổi tác chức vị ngang hàng với
Nghiêm mà Nghiêm không chịu thân gần. Quan kém Nghiên hơn hai mươi
tuổi nhưng thường cùng Nghiêm thân cận như người cùng bối phận. Năm
ba mươi bảy tuổi chết. Việc làm bị thất truyền nên không viết thành truyện.
Truân Kỵ giữ vững lòng xưa, khi tiết bền chắc chẳng đổi dời. Tới lúc
theo về nghe mạng lệnh tận tâm trù liệu cho thế nhân, chi dùng trong quân
được cậy nhờ, giỏibiện bác, giỏi lo toan - Tán Vương Nghi Văn.
Thượng Thư ưa chuộng thanh cao, sửa việc làm tự tu thân, nâng ý chí
giữ đạo nghĩ, thưởng thức văn học điển chương, hoà theo phong độ cao cao