đầu từ giai đoạn đẩy mẩu tóc dài ba milimét của con đi được hai xentimét.
Nghiên cứu kéo dài nửa thế kỷ, trong thời gian đó lại gián đoạn mấy lần vì
đủ thứ nguyên nhân, dần dần đã từ nghiên cứu lý thuyết chuyển sang giai
đoạn phát triển công nghệ. Những gian nan vất vả trong thời gian này thế
nào thì ta không nói nữa. Ở giai đoạn khai phá công nghệ cuối cùng, cần
phải thí nghiệm truyền động bằng độ cong không gian trên quy mô lớn.
Đối với căn cứ Sao Thủy, đây là một trở ngại lớn, một là vì nguồn lực của
căn cứ có hạn, khó mà tiến hành những thí nghiệm như vậy; hai là một khi
thí nghiệm, ắt sẽ sinh ra vết đường bay, sẽ bại lộ mục đích thực sự của căn
cứ Sao Thủy. Kỳ thực, trong hơn năm chục năm này, nhân viên trong căn
cứ thay đổi rất nhiều, chính phủ liên bang không thể nào không phát giác
chuyện gì đang diễn ra đằng sau tấm màn của căn cứ Sao Thủy, chỉ có điều,
nghiên cứu và thí nghiệm đều ở quy mô rất nhỏ, vả lại đều có vỏ bọc che
đậy, nên họ vẫn luôn nhân nhượng bỏ qua. Nhưng nếu muốn tiến hành thí
nghiệm quy mô lớn thì cần phải có sự ủng hộ của chính phủ. Chúng ta đã
tìm gặp chính phủ liên bang, về sau hai bên hợp tác rất vui vẻ.”
“Luật cấm nghiên cứu chế tạo phi thuyền vận tốc ánh sáng đã bị bãi bỏ
rồi ạ?” Trình Tâm hỏi.
“Không, chính phủ hợp tác với chúng ta là vì...” La Tập gõ cây gậy
xuống mặt đất, phát ra những tiếng cạch cạch đều đặn - ông ta đang do dự,
“chuyện này, tạm thời không nói đến. Một năm trước, đã chế tạo được ba
động cơ truyền động bằng độ cong của không gian, tổng cộng đã tiến hành
ba lần bay thử không người lái với vận tốc ánh sáng. Lần thứ nhất động cơ
số 1 chuyển sang vận tốc ánh sáng ở vùng không gian cách Mặt trời một
trăm năm mươi đơn vị thiên văn, bay với vận tốc ánh sáng một đoạn rồi
trở về. Đối với bản thân động cơ, thời gian bay thử chỉ khoảng mười phút,
nhưng đối với chúng ta, ba năm sau chúng mới trở về. Lần bay thử thứ hai