[←12]
Bài Hao Lý Hành - một trong những bài thơ nổi tiếng của Tào Tháo.
Phiên âm:
Quan Đông [1] hữu nghĩa sĩ, hưng binh thảo quần hung [2].
Sơ kỳ hội minh tân [3], nãi tâm tại Hàm Dương [4].
Hợp quân lực bất tề, trù trừ nhi nhạn hành.
Thế lợi sử nhân tranh, tự hoàn tự tương tường.
Hoài Nam đệ xưng hiệu [5], khắc tỉ ư bắc phương [6].
Khải giáp sinh kỷ sắt, vạn tính dĩ tử vong.
Bạch cốt lộ ư dã, thiên lý vô kê minh.
Sinh dân bách di nhất, niệm chi đoạn nhân trường.
Dịch nghĩa:
Quan Đông có bao nhiêu nghĩa nhân trí sĩ, nhiều người khởi binh thảo phạt bọn hung tàn.
Buổi ban đầu sơ hội lập đồng minh, các lộ tướng lĩnh đều mong đồng tâm hướng về Trường
An.
Quân các lộ vì tính toán riêng, chỉ nhìn nhau, không hợp sức, như nhạn kia lẻ loi chia hàng.
Hai chữ Thế và Lợi khiến cho các lộ tự tranh đoạt lẫn nhau, từ đó mà thành ra tàn sát lẫn
nhau.
Đường đệ của Viên Thiệu là Viên Thuật ở Hoài Nam thì tiếm xưng đế hiệu, còn Viên Thiệu
thì mưu lập hoàng đế bù nhìn ở phương bắc mà cho khắc ấn tỉ.
Chiến tranh liên miên không dứt, khải giáp chiến y mặc lâu đến mức sinh đầy chấy rận, cũng
vì thế mà muôn dân trăm họ mà tử vong chết chóc rất nhiều.
Xương trắng khô phơi đầy đồng ruộng, ngàn dặm không nao một tiếng gà.
Trăm họ thì trăm người may mắn được một người sống sót, cho nên cứ nghĩ đến là lại khiến ta
lại thấy thắt từng khúc ruột.
Dịch theo thể song thất lục bát:
Quan Đông nghĩa sĩ bao người,
Dấy binh dẹp loạn giúp đời trừ gian.
Mạnh Tân những lập thề sơ hội,
Rắp một lòng hướng tới Hàm Dương.
Sức quân không hợp ai lường,