- Họ nhà ta làm chúa cả thiên hạ, nay phải ăn trái bần lót dạ. Từ nay cấm
không gọi là trái bần nữa.
Bửu hỏi ngày:
- Thưa chúa vậy phải gọi là trái gì?
Ánh ngẫm nghĩ rồi đáp:
- Từ nay phải gọi là cây Thuỷ Liễu!
Ánh nói xong liền dâng trái Thuỷ Liễu cho mẹ dùng. Hôm sau Trương Tấn
Bửu lại đem về một chiếc thuyền lớn nói với Phúc Ánh:
- Nay giặc Tây Sơn đi lùng sục khắp nơi, sớm mượn gì cũng đến nơi này.
Vậy mới Chúa thượng mau lên thuyền chạy ra ngoài hải đảo lạnh nạn mới
yên.
Phúc Ánh nói:
- Năm xưa hai chúa cũng vì chạy ra hải đảo lánh nạn nên mới bị nữ tướng
của giặc là Bùi Thị Xuân bắt ở cửa Hàm Luông. Nay nếu ta chạy theo
đường đó làm gì mà không bị đón bắt như hai lần trước?
Bửu đáp:
- Xin Chúa thượng chớ lo, kênh rạch vùng này thân dân rất rành. Thân dân
sẽ cho thuyền theo rạch nhỏ mà đi ra ngoài biển. Giặc Tây Sơn không thể
nào biết được.
Phúc Ánh và Lê Văn Quân nghe lời đưa quốc mẫu và công chúa Ngọc Du
lên thuyền theo Trương Tấn Bửu mà đi. Bửu cho ghe luồn lách trong rạch
nhỏ quả nhiên không gặp quân Tây Sơn. Nhưng vừa ra cửa bể bỗng gặp nữ
tướng Tây Sơn Bùi Thị Xuân đem vài chiến thuyền đi tuần tiễu trông thấy.
Bùi Thị Xuân gọi lớn:
- Chiếc thuyền kia mau dừng lại cho quân ta tra xét.
Trương Tấn Bửu không đáp, giong buồm cho thuyền chạy ra khơi. Thị
Xuân nói:
- Long Nhương tướng quân đoán không lầm. Quả nhiên là thuyền Phúc
Ánh chạy trốn. Mau đuổi theo!
Phúc Ánh trông thấy Bùi Thị Xuân đuổi theo liền trương cũng lắp tên bắn
một phát. Thị Xuân lẹ mắt chụp được mũi tên ấy, rồi lấy cung bắn trả. Tên
bay xé gió trúng dây buồm dứt lìa. Thuyền Phúc Ánh đứt dây buồm không