“Tức là,” Shirley nói, “anh muốn được nghỉ hai buổi chiều liền nhau
chứ gì.”
“Cô hiểu quá còn gì.” Hắn giải thích rằng mẹ hắn muốn đi thăm anh
trai, thế có nghĩa là phải ngủ lại ít nhất một đêm, có khi còn hai. Tất nhiên
bà ta chẳng có anh em nào, và khi nói về những chuyến đi, thì chuyến đi
duy nhất mẹ hắn quan tâm lúc này là hành trình đầy thơ mộng tìm ghế sofa
đến tủ rượu rồi quay trở lại.
“Tôi tin là Rudy sẽ đồng ý thôi. Anh có muốn tự gọi cho cậu ta
không?”
“Nếu lời đề nghị mà do cô đưa ra thì coi như xong rồi còn gì.”
Cô ả cười hinh hích, làm những tảng thịt bự chảng rung rinh rất tởm.
Cô ả gọi điện trong lúc Brady thay quần áo mặc thường ngày. Rudy sung
sướng nhường ca Chủ nhật và nhận ca thứ Ba của Brady. Như vậy là hắn có
hai buổi chiều rảnh rỗi để rình mò quanh Zoney’s GOMART, và hai là đủ
rồi. Nếu con bé không xuất hiện cùng con chó vào một trong hai ngày đó,
thì thứ Tư hắn sẽ xin nghỉ ốm. Nếu hắn buộc phải làm thế, nhưng hắn
không nghĩ là sẽ lâu đến vậy.
Sau khi rời khỏi Loeb’s, Brady đi mua sắm vài món ở cửa hàng
Kroger. Hắn nhặt nhanh nửa tá đồ hai mẹ con cần đến - nguồn lương thực
như trứng, sữa, bơ, và bột ngũ cốc Cocoa Puff - rồi vòng qua quầy thịt và
lấy nửa cân hamburger. Chín mươi phần trăm nạc. Không gì khác ngoài thứ
ngon nhất cho bữa ăn cuối cùng của Odell.
Về đến nhà, hắn mở garage và đỡ những món đã mua ở Garden World,
thận trọng để những lọ GOPHER-GO lên một cái giá cao. Mẹ hắn hiếm khi
ra đến đây, nhưng không thể mạo hiểm được. Có một chiếc tủ lạnh mini đặt
dưới bàn làm việc; Brady mua nó trong đám đồ cũ với giá bảy đô la, rẻ như
ăn trộm. Đây là nơi hắn vẫn để đồ uống của mình. Hắn nhét gói hamburger
vào phía sau đống Coke và Mountain Dew rồi lẳng chỗ đồ ăn còn lại vào
trong. Cảnh hắn thấy trong bếp thật là dễ chịu: mẹ hắn đang rắc ớt bột
paprika lên món salad cá ngừ trông ngon lành ra phết.
Bà ta bắt gặp cái nhìn của hắn và bật cười. “Mẹ muốn đền cho món
lasagna. Mẹ xin lỗi về chuyện đó, nhưng hôm ấy mẹ mệt vô cùng luôn.”