rộng cho công dân các thuộc địa Hy Lạp tham dự. Chắc chắn rằng danh từ
“Hellanodikês” (Hellanodice) chỉ ra đời khi Hội Olympiques trở thành hội
của toàn thể con dân đất nước Hellade (Hy Lạp). Để chuẩn bị mở hội, các
thành bang Hy Lạp cử một loại quan chức đặc biệt gọi là Théorie đại diện
cho thành bang của mình, họp lại, bàn với nhau về chuẩn bị tổ chức và nghĩa
vụ đóng góp. Đây là một loại sứ thần đặc biệt của thành bang chuyên đảm
nhận những nhiệm vụ thiêng liêng và quan trọng có tính chất tôn giáo như:
đến các đền thờ cầu nguyện và xin thánh thần ban cho lời chỉ dẫn, chủ tọa
các lễ hiến tế thần linh, chủ trì các lễ rước trong các hội lễ, đích thân thay
mặt cho thành bang dâng lễ vật lên bàn thờ các vị thần. Thí dụ ở Athènes,
Théorie hàng năm thay mặt cho thành bang sang đảo Délos để chủ trì lễ hiến
tế thần Apollon. Trong ngày khởi hành và ngày trở về của Théorie, thành
bang Athènes đình chỉ việc tuyên án tử hình các phạm nhân. Cuộc họp của
các Théorie định ngày tổ chức hội, định thời gian đình chiến (thường là một
tháng) sau đó loan báo cho các thành bang không có đại diện đến dự họp
được biết. Tiếp theo là các thành bang cử các đoàn lực sĩ tham gia thi đấu tới
luyện tập ở trường đấu (sân vận động) Élis, một địa điểm gần Olympiques.
Đối với người dân Hy Lạp mỗi kỳ mở hội là một dịp để hiểu biết đất nước và
con người, một dịp để thi thố tài năng, nhưng cũng đồng thời là một dịp để
các thành bang thể hiện lòng tự hào về sự cai trị, quản lý, giáo dục công dân
và đất nước của mình. Người ta nô nức kéo nhau đi dự hội. Những ngày gần
khai mạc không khí thật là tưng bừng, nhộn nhịp. Từ các ngả đường, người ở
khắp nơi đổ về. Đền thờ các vị thần không lúc nào vắng người. Các lực sĩ
cầu nguyện thần thánh ban cho mình thắng lợi. Những người thân thích của
các lực sĩ cầu nguyện, công dân của các thành bang cầu nguyện. Phụ nữ
không được quyền dự hội dù là phụ nữ quý tộc, vợ con của những nhà cầm
quyền. Người phụ nữ duy nhất được quyền dự hội là viên nữ tư tế của nữ
thần Déméter Chaminé. Nhưng nô lệ và những người Dã man, tức là những
người nước ngoài (Hy Lạp xưa kia gọi những người nước ngoài bằng danh
từ này) lại được quyền dự hội song không được quyền thi đấu (Có tài liệu
nói, nô lệ không được quyền dự hội). Nếu vi phạm vào những điều nghiêm
cấm, kẻ phạm tội sẽ bị xử tử bằng hình phạt đẩy xuống vực thẳm. Đêm trước
ngày khai mạc không khí lại càng náo nhiệt hơn. Người ta đeo mặt nạ, rước
đuốc, ca hát cổ động cho ngày hội và cho thành bang của mình. Các nhà thơ
đọc những bài thơ vừa sáng tác ca ngợi đất nước Hy Lạp, thành bang của
mình, ca ngợi vẻ đẹp của người lực sĩ, vinh quang của người chiến thắng,
đọc thơ đệm theo đàn lia hoặc đàn cithare. Tiếng súc vật kêu bị giết để làm
lễ hiến tế, tiếng đàn sáo, ca hát, vui đùa, cầu nguyện hòa lẫn vào nhau tạo
thành một bầu không khí tưng bừng, sôi động kéo dài gần như suốt đêm. Bên
bờ sông Alphée là những căn lều của những người dự hội, những đoàn vận
động viên, “làng Olympiques”, đèn đuốc sáng rực.