Duy Ngô Nhĩ; họ làm nông nghiệp trên các ốc đảo ở vùng sa mạc
Taklimakan và xung quanh Vùng tự trị Tân Cương ngày nay ở Trung
Hoa. Thành Cát Tư Hãn chấp nhận sự quy phục của họ, và áp dụng
phương pháp liên minh duy nhất là tìm cách để họ gia nhập vào gia
đình ông. Ông gả con gái mình cho vị hãn của người Duy Ngô Nhĩ,
để ông ta trở thành con rể của mình.
Khi kết giao với các bộ lạc Siberia và người Duy Ngô Nhĩ, Thành
Cát Tư Hãn không chỉ đơn giản là liên minh với các hoàng tộc khác.
Ông cũng đang tiếp nhận cả bộ lạc hay cả nước làm người nhà
trong đế chế của mình, bởi theo thông lệ chính trị của bộ lạc, là họ
hàng của hãn tương đương với việc có quan hệ ruột thịt với cả quốc
gia. Theo nghĩa này, quan hệ họ hàng đã mở rộng thành một dạng
quốc tịch. Thành Cát Tư Hãn tiếp tục ứng dụng và mở rộng quan hệ
này trong các năm tiếp theo, và nó trở thành một hình thức quốc tịch
chung không dựa trên tôn giáo chung, như người theo đạo Ki-tô và
đạo Hồi, hay dựa trên huyết thống, như văn hóa bộ lạc truyền thống.
Nó chỉ dựa trên lòng trung thành và sự phục tùng. Dần dần, mọi
vương quốc không phải của người Mông Cổ trong Đế chế Mông Cổ
được gọi là Khari, bắt nguồn từ một từ nghĩa là màu đen, và có ý chỉ
họ hàng thông gia. Như vậy, những quốc gia được chọn lựa như
người Duy Ngô Nhĩ và người Triều Tiên, và các nhóm người Turk,
sẽ có vinh dự được làm thông gia với người Mông Cổ, trong khi hôn
nhân bên ngoài hệ thống “họ hàng đen” thì không được phép.