Khi vị hãn Duy Ngô Nhĩ tới triều đình Mông Cổ để cử hành hôn
lễ vào khoảng năm 1209, ông tới với một xe lạc đà chở đầy lễ vật xa
hoa, bao gồm vàng, bạc, ngọc trai với nhiều kích thước, hình dạng
và màu sắc khác nhau. Không biết thêu thùa, người Mông Cổ vốn
chỉ có da, lông thú và da thuộc làm từ len ép, nên những sính lễ
quan trọng nhất với họ là các loại vải dệt tinh xảo, bao gồm lụa, gấm
thêu kim tuyến, tơ lụa Damask
và sa-tanh. Chuyến thăm của người
Duy Ngô Nhĩ làm nổi bật sự đối lập giữa nền văn minh nông nghiệp
giàu có và các bộ lạc thảo nguyên nghèo nàn. Thành Cát Tư Hãn
thống lĩnh một quân đội hùng mạnh, song lại là thủ lĩnh của một
nhóm người phần lớn là nghèo đói, trong khi đó về phía nam, phía
bên kia sa mạc Gobi, là cả một dòng chảy thương phẩm không đều
đặn nhưng hoành tráng dọc theo Con đường Tơ lụa. Ông đã sẵn
sàng để khắc phục sự mất cân bằng hàng hóa này, và để thử sức
quân đội của mình trước những đội quân khác, nhưng những nỗ lực
này tiềm ẩn rủi ro rất cao. Thành Cát Tư Hãn không ngần ngại nắm
lấy cơ hội, và chẳng mấy chốc, như thể lời cầu nguyện của ông đã
ứng nghiệm, cơ hội này đã tự đến.
Chưa có ai để ý tới vị thủ lĩnh mới lên này hay quốc gia Mông Cổ
mới thành lập của ông ta. Bên ngoài vùng thảo nguyên khép kín ở
Nội Á, khi đó ít ai để ý tới việc một thủ lĩnh bạo tàn bị giết và một
người mới lên ngôi, hay liên hệ việc một bộ lạc man rợ bị tiêu diệt
với việc kẻ địch của họ giành được quyền lực. Các cuộc chiến giữa
các bộ lạc nhỏ lẻ để tranh giành ngựa, phụ nữ, và vải vóc không có