lĩnh vùng đất nào khác. Chúng ta đều đạt được lợi ích như nhau khi
củng cố giao thương giữa người dân hai bên.”
Dù có chút nghi ngờ và lo ngại, vị sultan đồng ý với thỏa ước
này. Vì bản thân người Mông Cổ không phải là thương nhân, Thành
Cát Tư Hãn trông cậy vào các thương nhân Hồi giáo và Ấn Độ giáo
trong lãnh thổ của người Duy Ngô Nhĩ mà ông mới giành được;
trong số họ, ông tập hợp 450 thương nhân cùng tùy tùng và gửi họ
từ Mông Cổ tới Khwarizm, theo đó là một đoàn xe chở đầy các mặt
hàng quý giá như vải làm từ da lạc đà trắng, lụa Trung Hoa, thỏi bạc
và ngọc lục bảo thô. Ông gửi theo một người Ấn Độ dẫn đầu đoàn
với lời nhắn hòa hữu cho vị sultan, mời buôn bán để “từ đây ung
nhọt của những tư tưởng xấu xa sẽ bị loại bỏ nhờ những tiến triển
trong quan hệ và mối hòa hữu giữa chúng ta, và phần mưng mủ của
sự nổi loạn và gây rối sẽ được gột sạch.”
Khi đoàn xe tới tỉnh Ortrar, ở tây bắc Khwarizm, nay thuộc phía
nam Kazakhstan, vị quan kiêu ngạo và tham lam ở đó đã chiếm hết
tài sản và giết các thương nhân cùng người cưỡi ngựa. Ông ta
không biết rằng hệ quả sau đó tàn khốc thế nào. Như nhà quan sát
Ba Tư Juvaini giải thích, việc tên quan kia tấn công không chỉ phá
hủy một đoàn xe kéo, mà còn “tàn phá cả thế giới.”
Khi nghe chuyện, Thành Cát Tư Hãn gửi sứ giả đề nghị vị sultan
trừng phạt tên quan địa phương vì đã tấn công; song thay vào đó,
sultan lại khiển trách Thành Cát Tư Hãn theo cách công khai và xúc
phạm nhất ông biết. Ông ta giết một vài sứ giả, và cắt xẻo mặt một