- Trong thời gian ở ngôi, vua có niên hiệu là Kiến Tân (từ 1398 đến 1400).
Trong số 13 vua nối nhau trị vì 175 năm, ta thấy:
- Có sáu vua là Thái Tông, Thánh Tông, Nhân Tông, Anh Tông, Minh Tông và
Nghệ Tông, chỉ làm vua một thời gian, sau đó nhường ngôi cho con hoặc cho
em (như trường hợp Trần Nghệ Tông nhường ngôi cho Trần Duệ Tông) hoặc
cho cháu (như trường hợp Trần Nghệ Tông cho Trần Phế Đế nối ngôi) để làm
thượng hoàng.
- Vua thọ nhất là Trần Nghệ Tông (73 tuổi), vua mất sớm nhất là Trần Thuận
Tông (21 tuổi).
- Có một vua vốn người khác họ là Dương Nhật Lễ (1369 - 1370).
- Vua ở ngôi lâu nhất là Trần Thái Tông (33 năm), vua ở ngôi ngắn nhất là Trần
Nghệ Tông và Trần Thiếu Đế (đều 2 năm).
- Vua lên ngôi sớm nhất là Trần Thiếu Đế (lúc mới 2 tuổi) và vua lên ngôi muộn
nhất là Trần Nghệ Tông (lúc 49 tuổi).
- Người ở ngôi thượng hoàng lâu nhất là Trần Minh Tông (28 năm) và ngắn nhất
là Trần Nhân Tông vâ Trần Anh Tông (đều 6 năm).
- Có hai vua xuất gia tu hành là Trần Nhân Tông (9 năm) và Trần Thuận Tông
(1 năm).
III - THẾ THỨ THỜI HẬU TRẦN (1407 - 1413)
Cuối năm 1406, núp dưới danh nghĩa phù Trần diệt Hồ, quân Minh đã tràn sang
xâm lược nước ta. Cuộc kháng chiến chống xâm lăng do nhà Hồ lãnh đạo đã
nhanh chóng bị thất bại, đất nước phải chịu hai mươi năm tủi nhục dưới ách đô
hộ của kẻ thù. Nhưng cũng chính trong thời gian bị đô hộ ấy, một loạt những
cuộc khởi nghĩa lớn nhỏ đã bùng nổ, trong số đó, có cuộc khởi nghĩa do Trần
Ngỗi và Trần Quý Khoáng lãnh đạo. Do chỗ Trần Ngỗi và Trần Quý Khoáng
đều là quý tộc họ Trần và đều xưng đế, cho nên, sử vẫn gọi thời Trần Ngỗi và
Trần Quý Khoáng là thời hậu Trần.
Xét về trật tự thời gian, thời hậu Trần xuất hiện sau triều Hồ, nhưng thể theo
thói quen xưa nay, chúng tôi đưa thời hậu Trần vào ngay sau phần giới thiệu thế
thứ các vua thời Trần.
Thời hậu Trần có hai vua cụ thể sau đây: