sao? Cho dù vạn bất đắc dĩ phải dùng biện pháp mạnh thì tuyệt đối không
thể đích thân ra tay được.”
Đường Tiếu tỏ vẻ coi thường, bĩu môi nói: “Làm gì mà phiền phức như
vậy? Chuyện này mà ở Tứ Xuyên nhà ta, kẻ nào dám cả gan khiến Đường
Môn chúng ta không vừa lòng, trong vòng ba ngày nhất định sẽ chết không
nhắm mắt.”
Nam Cung Phóng chỉ cười khẩy miệt thị bằng giọng mũi, không nói gì
nữa. Rồi bỗng nhiên gã ghìm cương ngựa trước một căn tứ hợp viện tường
đỏ ngói xanh, lấy roi ngựa chỉ: “Đến rồi!”
Khi Lạc Văn Giai về đến nhà, trời đã sẩm tối. Mẫu thân gã đang bận rộn
trong bếp, trong nhà thơm phức mùi cơm canh. Lạc Văn Giai đưa giỏ hoa
quả cho mẹ: “Mẹ! Hân Di gửi để mẹ nếm thử.”
Mẫu thân gã không nhận lấy, mà chỉ buồn bã thở dài: “Mẹ không ăn
nổi.”
“Tại sao lại vậy?” Lạc Văn Giai thấy thần sắc của mẹ có gì đó khác lạ,
vội hỏi.
“Nhà ta gia cảnh bần hàn, nhưng cũng là thư hương thế gia. Lẽ nào con
cứ cam tâm nhận đồ người ta cho mãi? Mặc dù con và Hân Di có hôn ước,
nhưng nếu như con không thể thi đậu thành danh, thì làm sao đón nó về
được? Cứ xem như Hân Di không quan tâm những điều đó, thì e rằng phụ
thân nó cũng không đáp ứng đâu.”
“Mẹ dạy rất phải.” Lạc Văn Giai vội đáp. “Con nhất định sẽ nỗ lực học
tập, sớm ngày thi đậu…”
“Đúng là đồ vô dụng!” Mẫu thân gã vừa dọn cơm canh lên bàn, vừa
nửa đùa nửa thật trách móc. “Tổ tiên nhà ta đời đời đều học hành đọc sách,
không biết bao nhiêu người là tiến sĩ, giải nguyên, còn con, nếu cả cử nhân
cũng không thi đỗ, thì còn mặt mũi nào nhìn người ta chứ?”
“Vâng, vâng, vâng!” Lạc Văn Giai vội cười xòa đáp. “Con nhất định sẽ
khổ công học tập, giành lấy giải nguyên, để mẫu thân đại nhân được làm đại
lão phu nhân!”