chí kia thì các quý phụ hoặc người nghèo không thể nào giả được. Tiền
chưởng quầy lập tức đưa ra phán đoán, đây là quản sự của một đại phú hộ
nào đó, có lẽ mới được chủ nhân trọng dụng nên không biết nặng nhẹ.
Hạng nữ nhân này không đáng tiền, Tiền chưởng quầy dùng con mắt
nhà nghề thầm đánh giá, lập tức quy nàng vào loại bỏ thì thương, vương thì
tội. Nữ nhân ấy lộ vẻ khinh thường lụa là trên quầy, luôn miệng chê bai: “Có
thế này thôi á? Mầu này còn bao nhiêu?”
Tiệm lụa buôn bán ế ẩm, Tiền chưởng quầy cũng không nhập nhiều
hàng, tiện miệng đáp: “Loại gấm Hồ Nam này còn khoảng nửa súc, lụa Vân
Nam thì chắc còn hai, ba súc gì đó.”
“Có ít thế sao mà đủ?” Nữ nhân lại làu bàu.
“Vậy quý khách cần bao nhiêu?” Tiền chưởng quầy thận trọng hỏi.
Nữ nhân chỉ vào mấy loại lụa: “Loại này, loại này, cả mấy loại bên này
nữa, mỗi loại ít nhất phải mười súc.”
“Mỗi loại mười súc?” Tiền chưởng quầy giật nẩy mình, thầm lách tách
tính toán. Mấy chục súc lụa, cho dù mỗi súc lãi một lượng, vậy thì cũng có
thể lời gần trăm lượng. Lão lập tức đổi sang bộ mặt tươi cười đon đả:
“Không biết phu nhân dùng nhiều lụa thế làm gì?”
Tiếng gọi “phu nhân” khiến nữ nhân ấy rạng rỡ mặt mày, lập tức hoa
chân múa tay nói sang sảng: “Chưởng quầy có mắt nhìn đấy. Ông không biết
thôi, nhà chúng ta năm nào vào dịp này đều phải mua một số lụa tốt, trước là
tặng bằng hữu thân thích, sau là để may quần áo mới cho tiểu thư a hoàn.
Mọi năm đều do quản gia phụ trách, song năm nay lại cứ bắt ta phải lo.”
“Không biết quý phủ ở đâu?” Tiền chưởng quầy dò hỏi.
Nữ nhân không giấu vẻ tự đắc, đáp: “Là Nam Cung phủ ở Dương
Châu, chắc ông biết chứ?”
Tiền chưởng quầy lại thấy tim mình giật nẩy, vội nói: “Hào môn Giang
Nam ai mà không biết? Thì ra là phu nhân của Nam Cung gia, thất kính, thất
kính! Không biết phải xưng hô với phu nhân thế nào?”