trăm lượng bạc còn không nỡ bỏ, chẳng trách tỷ tỷ muội không cần huynh
nữa.”
Lời nói vừa buột miệng Minh Châu đã hối hận không thôi, nhưng tiếc
rằng không thể vãn hồi. Nàng lén nhìn Vân Tương, nụ cười của gã đông
cứng trên mặt, ánh mắt đau khổ khiến người khác nhìn mà thấy lo âu. Minh
Châu muốn xin lỗi, nhưng mở miệng lại không biết nói sao mới phải. Hai
người im lặng một lát, Vân Tương cuối cùng gượng cười nói: “Phải! Người
Á Nam ngưỡng mộ là anh hùng đỉnh thiên lập địa, nàng sao có thể thích thư
sinh nghèo chỉ biết lừa bịp như ta?”
“Không phải như vậy! Tỷ tỷ không phải người như vậy!” Minh Châu
đỏ bừng mặt rối rít phân bua, nhưng không biết giải thích thế nào, đành nói:
“Không cần biết người khác nhìn huynh thế nào, trong lòng Minh Châu
huynh chính là đại anh hùng đầu đội trời chân đạp đất!”
Vân Tương cảm động vỗ vào tay Minh Châu: “Đừng nói nữa, để người
khác nghe thấy rồi lại thành chuyện cười. Nghe nói hôm nay ở phố Đông có
phiên chợ, muội mà đi muộn thì son phấn muội cần sẽ bán hết đấy.”
Minh Châu xấu hổ ngó quanh mới phát hiện người đi đường đều đang
nhìn nàng và Vân Tương. May mà họ đều không quen Vân Tương, càng
không biết thư sinh áo vải khuôn mặt nho nhã này chính là Thiên Môn công
tử Tương đã chỉ huy Tiễu Oa Doanh giành đại thắng trận vừa rồi.
Phía trước chợt vang lên một tràng chiêng trống thu hút mọi người tới
xem. Minh Châu tâm tính trẻ con, dĩ nhiên không bỏ qua náo nhiệt trước
mắt, nàng kéo tay Vân Tương chen tới. Thì ra có hai hán tử mãi nghệ, một
kẻ đang tuổi tráng niên, bộ dạng uy phong dũng mãnh, người còn lại tóc bạc
trắng, trông ra tuổi kề hoa giáp
nhưng vẫn uy dũng như sư tử. Hán tử trung
niên gõ một tràng chiêng dài, lôi kéo mọi người quây lại rồi mới ôm quyền
nói: “Hai sư đồ tại hạ vì trong nhà gặp đại nạn, hết cách mới phải lên phía
Bắc nhờ cậy thân thích. Ai ngờ giữa đường qua đất này thì lộ phí cạn sạch.
Vì vậy đành dọc đường mãi nghệ, gom mượn chút lộ phí. Nghe nói Hàng
Châu giàu có nhất Giang Nam, bách tính vui vẻ tích đức hành thiện, mong